Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2016

Par Lagerkvist - Giải Nobel Văn học năm 1951


Par Lagerkvist (23 tháng 5 năm 1891 – 11 tháng 7 năm 1974) – nhà văn, nhà thơ Thụy Điển đoạt giải Nobel Văn học năm 1951 “vì những tác phẩm mang sức mạnh nghệ thuật và sự suy xét độc lập của người đi tìm kiếm trong thơ ca câu trả lời cho những câu hỏi muôn thuở vẫn đứng trước loài người”. Một trong những chủ đề trung tâm của ông là câu hỏi cơ bản về điều Thiện và điều Ác mà ông đã xem xét qua những hình ảnh như Barabbas, người được giải phóng thay vì Jesus và Ahasuerus. Như một nhà đạo đức, ông đã sử dụng các mô típ và hình ảnh tôn giáo từ truyền thống Kitô giáo mà không theo các giáo lý của nhà thờ.   

Tiểu sử:
Par Lagerkvist sinh ở Växjö, từ nhỏ đã yêu thích văn chương và có ý định trở thành nhà văn. Tốt nghiệp Đại học năm 1912, ông bắt đầu in thơ và truyện. Thời kỳ Thế chiến I ông đi sang Đan Mạch, Pháp, Italia và sống ở đó nhiều năm. Sáng tác của ông đề cập đến những vấn đề muôn thuở: cái Thiện và cái Ác trong con người. Năm 1925, ông cho ra đời cuốn tự truyện Người khách của thực tế mang quan điểm nhân đạo, được viết bằng ngôn ngữ giản dị nhưng mang tính nghệ thuật cao. 

Năm 1926 ông xuất bản tập thơ Những khúc hát từ trái tim (Hjartats sanger) dành riêng cho người vợ yêu dấu Elaine của mình. Tập thơ này xứng đáng được coi là một trong những kiệt tác thơ tình của Thụy Điển, chính tác giả cũng gọi nó là tập thơ hay nhất của mình. Năm 1940, ông được bầu vào Viện Hàn lâm Thụy Điển. 

Tiểu thuyết Barabbas (1950) là đỉnh cao sáng tác của Lagerkvist, kể lại cốt truyện của Kinh Phúc Âm một cách chân thực và đầy sức thuyết phục, ngay lập tức được dịch sang 9 thứ tiếng và được dựng thành phim. Tiểu thuyết Barabbas về nỗ lực của con người tìm kiếm đức tin, đề cập đến những vấn đề cấp thiết nhất của tồn tại con người một cách hết sức xác thực và dũng cảm. 

Năm 1967 ông xuất bản tiểu thuyết Mariamne. Ông viết tác phẩm này xuất phát từ một bi kịch cá nhân của mình. Mùa hè năm 1967, người vợ yêu quý sống với ông trong hơn bốn mươi năm đã từ giã ông về với cõi vĩnh hằng. Đây là những gì giải thích cho một sức mạnh phi thường và một cảm xúc chân thành trong câu chuyện. Mariamne là bản tụng ca cô đơn của Lagerkvist thể hiện qua một hiện tượng không bình thường sau nhiều thử nghiệm với sự hiểu biết hiện đại về huyền thoại. Trong cuốn tiểu thuyết này Lagerkvist một lần nữa chứng tỏ là một bậc thầy về bố cục với một hệ thống phức tạp, thường bất ngờ và đa nghĩa xác nhận nguyên tắc lặp lại và phát triển theo hình xoắn ốc.

Pär Lagerkvist kết hôn lần đầu với Karen Sørensen từ năm 1916. Họ có một con gái là Elin Lagerkvist. Sau khi ly dị, ông tái hôn vào năm 1925 với Elaine Hallberg, là vợ góa của nghệ sĩ Gösta Sandels. Trong cuộc hôn nhân thứ hai, ông trở thành bố của Bengt Lagerkvist và Ulf Lagerkvist, đều là những người rất nổi tiếng ở Thụy Điển. 

Par Lagerkvist mất ngày 11 tháng 7 năm 1974 ở Stockholm, hưởng thọ 83 tuổi. 

Tác phẩm
-Những con người (Manniskor, 1912), truyện dài
- Sắt và người (Jam och manniskor, 1915), tập truyện
- Nỗi buồn (Angest, 1916), thơ
- Thời khắc khú khăn I, II, III (Den svara stunden, 1918), kịch
- Bí mật thiên đường (Himlens hemlighet, 1919), kịch
- Nụ cười vĩnh cửu (Det eviga bendet, 1920), truyện dài
- Con đường của người hạnh phúc (Den lyckliges vag, 1921), thơ
- Người vô hình (Den osynlige, 1923), kịch
- Những truyền thuyết anh hùng đáng sợ (Onda sagor, 1924), tập truyện ngắn
- Vị khách của thực tại (Gaest hos verkligheten, 1925), tự truyện
- Bài ca trái tim (Hjartats sanger, 1926), thơ
- Cuộc sống bị chinh phục (Det besegrade livet, 1927), tự truyện
- Người đó sống hết cuộc đời (Han som fick leva om sitt liv, 1928), kịch
- Bên đống lửa (Vid legeraldem, 1932), tập thơ
- Người không có tâm hồn (Mannen utan sjal, 1936), kịch
- Thơ và cuộc chiến (Song och strid, 1940), tập thơ
- Thằng lùn (Dvọrgen, 1944), tiểu thuyết
- Hãy để cho mọi người được sống (Lat manniskam leva, 1949), kịch
- Barabbas (Barabbas, 1950), tiểu thuyết
- Xứ sở hoàng hôn (Aftonland, 1953), tập thơ.
- Sibyllan (1956), tiểu thuyết
- Cái chết của Ahasverus (Ahasverus dod, 1960), tiểu thuyết
- Người hành hương trên biển (Pilgrim pa havet, 1962), tiểu thuyết
- Mariamne (1967), tiểu thuyết

16 bài thơ


EM MỈM CƯỜI

Em mỉm cười – mọi tinh cầu vụt tắt
Em là ước mơ, là hy vọng của anh
Dành cho em những gì có trên mặt đất
Đời không em như sa mạc hoang tàn.

Em lấy đi – nghĩa là em ban tặng
Tiếng xạc xào, điều bí ẩn cho anh
Em mỉm cười – mọi tinh cầu tắt ngấm
Em mỉm cười – chết lặng cả xung quanh.

När du ler förbleknar allt omkring dig

När du ler förbleknar allt omkring dig,
som om jordens glädje räckte blott åt dig.
Livet syns så tomt och öde kring mig,
ljust och lyckligt blott hos dig, hos dig.

Så gör du mig både rik och fattig,
och jag vet ej vad du gav och tog från mig.
Längtar bara efter denna glädje,
som när allt förbleknar strålar ut från dig.


CHÀNG KỊ SĨ PHÓNG NGỰA MỘT MÌNH

Chàng kị sĩ phóng ngựa một mình
Trong đêm dài sau tiếng guốc
Còn những bông hoa rạo rực
Như lửa cháy lên.

Tâm hồn chàng trai như lửa
Và mặt đất mang thai
Và những bông hoa đã nở
Nở ra trong buổi sáng này
Hoa hãy còn rất xa và rất lạ
Để thành kỉ niệm về chàng trai
Đã từ lâu lắm và rất xa xôi
Ở ngoài chiến địa.

Ryttare rider ensam i natten

Ryttare rider ensam i natten,
under hovarna
växer upp blommor
eldröda, vilda
eld är hans själ.
Och jorden befruktas,
bär kostliga blommor
ännu om morgonen,
ännu i fjärran,
främmande tider
som minne av honom
sen långt borta,
fallen i friden.



NGƯỜI YÊU TÔI RA ĐI CHẲNG QUAY VỀ

Người yêu tôi ra đi rồi chẳng quay về
Nhưng tình yêu của tôi thì vẫn còn lại đấy
Những gì đã sống qua không còn quay lại nữa
Nhưng cuộc đời của tôi thì vẫn còn đây.

Min älskade kommer inte åter

Min älskade kommer inte åter,
men min kärlek kommer åter till mig.
Det jag levat kommer inte åter,
men mitt liv är åter hos mig.


TRÍCH TỪ “XỨ SỞ HOÀNG HÔN”

Em rồi sẽ trở thành một trong những người thượng cổ
Mặt đất sẽ nhớ về em như đất nhớ hoa cỏ, nhớ rừng
nhớ những chiếc lá kim.
Như đất nhớ
như núi đồi nhớ gió.
Sự yên lặng của em sẽ như biển, vĩnh hằng. 

(ur "Aftonland")

Engong skall du vara en av dem som levat fёr lеngesen.
Jorden skall minnas dig sо som den minns grеset och skogarna,
det multnade lёvet.
Sо som myllan minns
och sо som bergen minns vindarna.
Din frid skall vara o;ndlig sо som havet.


CUỘC ĐỜI TA CHỈ LÀ KHOẢNH KHẮC

Cuộc đời ta chỉ là khoảnh khắc
nếu so với sự tồn tại của linh hồn
và trong phút chốc
sự giải thoát
đã vội vàng trên đôi cánh tới không trung. 

Vad еr vaart liv, den korta stunden

Vad еr vaart liv, den korta stunden,
mot livet som vaar sjel tillhёr, 
ur tiden lёses den 
obunden 
och med sin vinge himlen rёr.



NHƯ BÔNG HOA HẠNH NHÂN

Như một bông hoa hạnh nhân
Người yêu của tôi đẹp dịu dàng
Ngọn gió hãy hát lên, ngọn gió
Nàng đẹp vô cùng!

Như một bông hoa hạnh nhân
Làn da trắng, nét trẻ trung
Chỉ cơn gió ban mai biết được
Nàng đẹp vô cùng.

Như một bông hoa hạnh nhân
Người yêu của tôi đẹp dịu dàng
Nhưng bóng tối xung quanh tôi vây kín
Liệu nàng có hạnh phúc ở đây không?

Som ett blommande mandeltrеd

Som ett blommande mandeltrеd
еr hon som jag har kеr.
Sjung du vind, sjung sakta fёr mig
om hur ljuvlig hon еr.

Som ett blommande mandeltrеd,
sо spеd, sо ljus och skеr.
Bara du, ёmmaste morgonvind,
vet hur ljuvlig hon еr.

Som ett blommande mandeltrеd
еr hon som jag har kеr.
Nеr det nu mёrknar sо tungt omkring mig,
kan hon vеl leva hеr?


SÂU NHƯ MẤT MÁT

Cái gì có thể sâu hơn sự mất mát
Cái gì lấp đầy con tim hơn là sự trống trơn
Cái gì làm ngập cõi lòng bằng việc đi tìm cái không
Em biết đấy mà em chẳng biết.

Người ta mang lại cho em sự bình yên ấm áp
Cháy trong lửa của em, yên bình trong ngọn lửa của tay em
Nhưng hạnh phúc của người đâu so được
sự trống vắng của anh
và khi em với người ta hòa nhập
là chống lại sự cô đơn của anh. 

Djupt som saknad

Vad еr djupt som saknad.
Vad fyller vоra hjеrtan sо som tomhet.
Vad uppfyller sjеlens; som lеngtan efter nоgot som inte finns,
som den vet inte finns.

Andra fоr ro hos dig.
Andra brinner i din eld, vilar i dina lеgande armar.
Men vad еr deras lycka
mot min tomhet,
deras glеdande fёrening med dig
mot min ensamhet.



TÌNH YÊU ĐƠN PHƯƠNG   

Không phải Chúa yêu chúng ta, mà chúng ta yêu Người.
Ai khao khát Người trong khát khao một điều gì đó khác
một cái gì đó ngoài chính chúng ta, như trong tình yêu.

Và niềm khao khát của chúng ta càng cháy bỏng hơn 
khi nó càng ít được đáp lại
nỗi tuyệt vọng của chúng ta càng sâu 
khi chúng ta càng hiểu rằng chúng ta bị bỏ rơi.
Rằng chúng ta không được ai yêu cả.

Còn gì sâu như mất mát, như tình yêu đơn phương.  

Obesvarad kärlek

Det är inte gud som älskar oss, det är vi som älskar honom.
Som sträcker oss efter honom i längtan efter något annat,
något utöver oss själva, så som kärleken gör.

Och vår längtan blir hetare ju mindre den besvaras,
vår förtvivlan djupare ju mer vi förstår att vi är övergivna.
Att vi är älskade av ingen.

Vad är djupt som saknad, som obesvarad kärlek.


HÃY GIỮ ANH BẰNG BÀN TAY VÔ HÌNH

Hãy giữ anh bằng bàn tay vô hình
Và xin làm ơn – đừng thả
Hãy đưa anh qua những cây cầu bình minh
Trên miệng vực kinh hoàng
Nơi bóng đêm em giam giữ. 

Nhưng làm sao giữ mãi được bóng đêm
Và trên cây cầu ít nữa buổi chiều đổ xuống
Còn sau đấy – là đêm

Và anh, có thể sẽ rất cô đơn.  

Hоll mig i din okеnde hand

Hоll mig i din okеnde hand
och slеpp mig inte.
Fёr mig pо morgonljusa broar
ёver de svindlande djup
dеr du hоller mёrkret fеngslat.

Men mёrkret f;ngslar man inte lеnge.
Snart skall det vara afton ёver dina broar
och natt.

Och kanske skall jag vara mycket ensam.



BẠN XA

Tôi có bạn xa, người mà tôi không biết
Người bạn xa ở bên kia đại dương
Tôi quan đến người bạn thường xuyên
Bạn là ai – người mà tôi không biết
Mà có thể là không có ở trần gian?

Bạn là ai, người làm đầy tôi bằng sự không có mặt của mình?
Bạn là ai, sự không có mặt kia làm đầy thế giới?

En frеmling 

En frеmling еr min vеn, en som jag inte kеnner.
En frеmling lоngt lоngt borta.
Fёr hans skull еr mitt hjеrta fullt av nёd.
Fёr att han inte finns hos mig.
Fёr att han kanske inte alls finns?

Vem еr du som uppfyller mitt hjеrta med din frоnvaro?
Som uppfyller hela vеrlden med din frоnvaro?


CHIẾC THUYỀN CỦA CUỘC SỐNG

Chẳng bao lâu bạn sẽ chết và không biết bạn đang lướt
trên thuyền của cuộc sống đi sang bờ bến khác
nơi buổi sáng chờ trên những bãi bồi kia. 

Đừng hốt hoảng. Đừng sợ giây phút giã từ. 
Sẽ có một bàn tay cẩn trọng
sửa lại cánh buồm cho bạn
để lướt như bay
từ đêm sang ngày.
Bạn đừng lo lắng
theo bờ im lặng
và bằng con đường nhung
của hoa cỏ hoàng hôn.

Livsboten

Snart еr du dёd och vet ej att du glider
pо livets bоt bort mot de andra landen
dеr morgon vеntar dig pа dolda strеnder.

Oroas ej. Rёds ej i uppbrottstimman.
En vеnlig hand lugnt ordnar
bоtens segel,
som fоr dig bort fron
kvеllens land till dagens.
Gо utan еngslan ner
i strandens tystnad,
den mjuka stigen genom
skymningsgrеset.


ƯỚC MUỐN

Tôi là ngôi sao tỏa sáng trong em
Hãy cứ để tâm hồn em tĩnh lặng
Bởi nếu khác, tôi làm sao phản ánh
Hồn em là nhà tôi. Cách khác không còn.

Nhưng hồn em chắc gì có thể lặng yên
Khi ánh sáng của tôi trong hồn em tỏa sáng.   

Vill

Jag еr stjеrnan som speglar sig i dig.
Din sjеl skall vara stilla,
annars kan jag inte spegla mig i den.
Din sjеl еr mitt hem. Jag har inget annat.

Men hur skulle du kunna vara stilla
nеr mitt ljus skеlver i din sjеl.


TẤT CẢ TRÊN ĐỜI NÀY LÀ HƯ KHÔNG

Tất cả trên đời này là hư không
Nhưng có một điều gì đấy lớn lên
Như đám mây giữa bấu trời xanh
Đang hấp thụ vào mình tất cả.

Và ngay trong giờ phút đó
Em ngỡ rằng mình quan trọng vô cùng
Nhưng phút chốc trở nên mất giá
Em ra đi, cát bụi mang theo mình
Em cũng là cát bụi.

Tất cả trên đời này là hư không

Det mesta еr sо betydelselёst

Det mesta еr sо betydelselёst.
Men so finns det nogonting oerhёrt som stiger upp som
ett glёdande moln pо himlen
och fёrtеr allt.

Dо blir allting fёrvandlat
och det som nyss tycktes dig av stёrsta vеrde
har inget vеrde alls fёr dig mer.
Och du gоr bort genom alltings aska
och еr sjеlv aska.

Det mesta еr sо betydelselёst.


TÔI MUỐN BIẾT

Tôi muốn biết – chỉ nhận được câu hỏi
Tôi muốn ánh sáng – chỉ được bỏng nhức nhối.
Tôi muốn một điều gì đó thật khó tin
Nhưng chỉ nhận được cuộc đời như vậy.

Tôi tiếc thương mình. Nhưng không ai hiểu tôi muốn gì.

Jag ville veta 

Jag ville veta men fick bara froga,
jag ville ljus men fick bara brinna.
Jag begerde det oerhёrda
men fick bara leva.

Jag beklagade mig. Men ingen fёrstod vad jag mente.



TẤT CẢ ĐƯỢC TRANG ĐIỂM

Tất cả được trang điểm bằng ánh hoàng hôn.
Tất cả tình yêu nằm ở trung tâm.
bầu trời trong ánh sáng đục
trên mặt đất
trên ngôi mộ vĩnh hằng. 

Tất cả dịu dàng, lòng tin của bàn tay âu yếm.
Chúa Trời hủy bỏ những bờ bến xa xăm.
Cái ở xa, ta nhìn thấy thật gần.
Tất cả ta được trời ban
nhưng chỉ cho ta mượn.

Những gì của tôi sẽ lấy về đúng hạn
và sắp tới đấy sẽ bị thu hồi.
Chỉ vĩnh viễn cỏ cây, mặt đất, bầu trời.
Và tôi sẽ lang thang thơ thẩn
một mình tôi, không dấu vết trên đời. 

Det är vackrast när det skimmer

Det еr vackrast nеr det skymmer.
All den kоrlek himlen rymmer
ligger samlad i ett dunkelt ljus
ёver jorden, 
ёver markens hus.

Allt еr ёmhet, allt еr smekt av hеnder.
Herren sjelv utplenar fjеrran strеnder.
Allt еr nеra, allt еr lоngt ifrоn.
Allt еr givet 
menniskan som lоn.

Allt еr mitt, och allt skall tagas frоn mig,
inom kort skall allting tagas fron mig.
Trеden, molnen, marken dеr jag gоr.
Jag skall vandra -
ensam, utan spоr.


KHÔNG HOÀNG HÔN, NĂM THÁNG

Không hoàng hôn, năm tháng bắt được ta
Giữa bầu trời – màu xanh và tĩnh lặng
Ta có nhau trong đời, có nghĩa là
Cả vũ trụ dịu êm và đằm thắm.

Em xinh đẹp, tắm mình trong sương sớm
Ánh sáng mặt đất trong sáng, rõ ràng
Em thánh thiện, tuyệt vời trong kí ức của anh
Anh chia sẻ cùng em phút giây âu yếm.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét