Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2016

M. Maeterlinck - Giải Nobel Văn học năm 1911


Maurice Maeterlinck (tên đầy đủ là Count Maurice Polidore Marie Bernhard Maeterlinck (29 tháng 6 năm 1862 – 6 tháng 5 năm 1949) – nhà viết kịch, nhà thơ, nhà triết học người Bỉ viết bằng tiếng Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1911 “vì các hoạt động văn học đa dạng của ông, đặc biệt là các tác phẩm kịch có sự hình dung phong phú, sự tưởng tượng đầy thi vị”. Ông là tác giả của “Con chim xanh”, một vở kịch ngụ ngôn triết học nói về sự tìm kiếm muôn thuở của con người đối với hạnh phúc và nhận thức cuộc sống. Tác phẩm của Maeterlinck phản ánh sự cố gắng của tâm hồn để đạt đến sự hiểu biết và tình yêu.

Tiểu sử:
Sinh ngày 29-8-1962 tại Ghent trong một gia đình khá giả, bố làm công chứng, mẹ là con gái một luật sư giàu có. Sau khi tốt nghiệp trung học và Đại học Luật Mooris Maeterlinck lên tu nghiệp về luật tại Paris. Năm 1886, ông gia nhập Đoàn Luật sư Ghent, viết thơ, kí, phê bình cho các báo và tạp chí như Nước Bỉ trẻ (La Jeune Belgique), La Wallonie. Năm 1886 ông in truyện ngắn đầu tiên Cuộc tàn sát những kẻ vô tội; năm 1889 xuất bản tập thơ đầu tiên và vở kịch đầu tiên, được một nhà phê bình Pháp rất có thế lực là O. Mirbau hết lời khen ngợi. Từ đó ông bỏ nghề luật sư. Trong những năm tiếp theo, ông viết hàng loạt vở kịch cổ tích, tượng trưng, kịch rối... Năm 1895 M. Maeterlinck cưới vợ là Leblan - diễn viên tham gia đóng các vở kịch của ông và năm 1896 sang Paris sinh sống. M. Maeterlinck ủng hộ nghệ thuật thuần túy, là một trong những đại diện tiêu biểu của trường phái tượng trưng cả trong thơ ca lẫn sân khấu, trong các tác phẩm của mình mở ra một thế giới đầy màu sắc, mộng ảo chống lại số phận khắc nghiệt. Năm 1909 ông viết xong vở kịch Con chim xanh là một kiệt tác sân khấu của kể về những cuộc phiêu lưu kiếm tìm hạnh phúc qua hình tượng con chim xanh, trở thành một điển cố văn học biểu tượng cho hạnh phúc tình yêu.

Maurice Maeterlinck được trao giải Nobel Văn học nhờ những tác phẩm kịch mang nội dung phong phú, giàu tưởng tượng đầy thi vị. Ông thường sử dụng thể loại cổ tích bởi vì cổ tích là biểu hiện sâu nhất và giản dị nhất của nhận thức tập thể, khơi dậy những cảm xúc con người. Kịch của ông thể hiện những hệ thống triết lý hình thành một cách trực giác. Mô típ cái chết thường xuyên hiện diện trong tác phẩm của ông ở giai đoạn cuối mang thêm màu sắc của chủ nghĩa thần bí. M. Maeterlinck được coi là một trong những người khởi đầu của sân khấu kịch phi lí; các vở kịch của ông đến ngày nay vẫn được dàn dựng ở nhiều nước trên thế giới.

Trong Thế chiến I, ông xin vào dân quân nhưng không được chấp nhận vì quá tuổi và nhà văn đã thể hiện lòng yêu nước bằng hàng loạt cuộc nói chuyện tuyên truyền ở Châu Âu và Mỹ. Năm 1939 Đức quốc xã đe dọa chiếm cả châu Âu Mooris Maeterlinck chạy sang Bồ Đào Nha, khi cảm thấy rằng Bồ Đào Nha cũng sẽ bị Đức chiếm, ông cùng với vợ sang Mỹ. Năm 1947 ông trở về Nice, Pháp.

Ngoài giải Nobel Maurice Maeterlinck được tặng huân chương Đại thập tự của vua Leopold (1920), huân chương Thanh kiếm của Bồ Đào Nha (1939) và được vua Bỉ phong tước hiệu Bá tước (1932). Ông mất ngày 6-5-1949 tại Nice, Pháp.


Tác phẩm:
*Cuộc tàn sát những kẻ vô tội (Le massacre des innocénts, 1886), truyện.
* Vườn kính (Serres chaudes, 1889), tập thơ.
*Công chúa Maleine (La princesse Maleine, 1889), kịch.
*Người đàn bà đột nhập (L'intruse, 1890), kịch
*Những người mù (Les aveugles, 1890), kịch
*Bảy nàng công chúa (Les sept princesses, 1891), kịch
*Pelleas và Mélisande (Pelléas et Mélisande, 1892), kịch
*Alladine và Palomides (Alladine et Palomides, 1894), kịch
*Cái chết của Tintagiles (La mort de Tintagiles, 1894), kịch
*Kho báu của những kẻ nhẫn nhục (Le trésor des humbles, 1896), luận văn mĩ học.
*Mười hai khúc ca (Douze chansons, 1896), thơ
*Aglavaine và Selysette (Aglavaine et Selysette, 1896), kịch cổ tích
*Khôn ngoan và định mệnh (Le sagesse et la destinée, 1898), khảo luận triết học
*Đời sống loài ong (La vie des abeilles, 1900), khảo luận.
*Ariane và gã Râu Xanh (Ariane et Barbe-Bleue, 1901), kịch
*Monna Vanna (1902), kịch
*Ngôi đền vùi lấp (Le temple enseveli, 1902)
*Joyselle (1903), kịch
*Điều kì diệu của thánh Antoine (Le miracle de Saint-Antoine, 1903), kịch
*Trí tuệ của hoa (L'intelligence des fleurs, 1907)
*Con chim xanh (L'oiseau bleu, 1909), kịch
*Thị trưởng Stilemonde (Bourgmestre de Stilemonde, 1919)
*Miền tiên cảnh lớn (La grande féerie, 1924), tiểu luận
*Tai họa đã qua (Le malheur passe, 1925), kịch
*Đời sống của mối (La vie des termites, 1926), tiểu luận
*Đời sống không gian vũ trụ (La vie de l'espase, 1928), tiểu luận
*Đời sống loài kiến (La vie des fourmis, 1930), tiểu luận
*Quy luật vĩ đại (La grande loi, 1933), tiểu luận
*Trước mặt Chúa (Devant Dieu, 1937), tiểu luận
*Thế giới khác, hay khớp vũ trụ (L'autre monde ou le cardan stellaire, 1942), tiểu luận
*Mười lăm khúc ca (Quinze Chansons, 1900), thơ

MƯỜI LĂM KHÚC CA 
(Trọn bộ)


Nàng bị giam nơi hang động tối tăm
Nàng đánh dấu của mình lên cánh cửa
Bởi vì nàng đã quên ánh bình minh
Và chìa khóa đã rơi vào biển cả. 

Nàng chờ đợi những tháng ngày mùa hạ

Nàng đợi chờ như thế hơn bảy năm
Mỗi năm đi qua một kẻ du hành.  

Nàng cũng chờ những ngày tháng mùa đông

Mái tóc nàng sáng ngời trong bóng tối
Mái tóc nàng nhớ lại ánh bình minh. 

Khắp mọi nơi người ta đi tìm nàng

Họ đi tìm nàng giữa bao vách đá
Giữa đá hoang vu sáng những ánh đèn. 

Buổi tối nọ, có một kẻ du hành

Thấy ngạc nhiên, nhìn ngọn đèn rất lạ
Nhưng người không đủ can đảm đến gần. 

Người mơ màng, người nhìn qua bóng đêm

Nghĩ đấy nguồn vàng hoặc điều gì lạ
Rằng thiên thần đang ngồi chơi ở đó
Người vội quay lưng như kẻ đi đường. 

II

Nếu một ngày người ấy quay trở lại
Thì em biết nói gì với người ta?
– Hãy nói rằng chị đã chờ mòn mỏi
Đến một hôm, đã kiệt sức trông chờ…

Thế nếu như người ấy không nhận ra

Nếu như em bị người ta gặng hỏi?
– Em cứ lựa lời nói với người ta
Có thể người ta cũng đau buồn đấy…

Nếu người hỏi biết tìm chị nơi đâu

Thì biết nói sao cho người yên dạ?
– Chiếc nhẫn vàng của chị em hãy trao
Cho người ta, đừng nói thêm gì cả…

Nhưng nếu như người ấy hỏi em rằng

Sao không có lửa, sao nhà vắng vậy?
– Em hãy chỉ vào cánh cửa mở toang
Và ngọn đèn đã tắt cho người ấy…

Thế nếu như người ấy hỏi em rằng

Chị có buồn, chị có từng than thở
– Em hãy nói rằng chị đã cười lên
Để người ta vì chị mà đau khổ…

III 

Người ta  đã giết chết  ba cô bé
Để xem những gì trong tim của họ.

Con tim đầu tiên tràn đầy hạnh phúc

Và kể từ khi máu chảy trên đất
Có ba con rắn rít trong ba năm.  

Con tim thứ hai đầy sự dịu dàng

Và kể từ khi máu chảy xuống đó 
Có ba con cừu giữ trong ba năm. 

Con tim thứ ba chứa đầy đau khổ

Và kể từ ngày máu rơi xuống đó
Mắt ba thiên thần nhìn suốt ba năm. 

IV

Những cô gái bị buộc băng vào mắt
(Đã tháo ra những băng dán bằng vàng!)
Những cô gái bị buộc băng vào mắt
Tìm phận mình trên những nẻo xa xăm. 

Họ tháo băng vào giữa giờ chính ngọ

(Ô, hãy giữ lại những dải băng vàng!)
Họ tháo băng vào giữa giờ chính ngọ
Lối vào cung điện nằm ở trên đồng.

Họ gửi lời chào cuộc sống mến thương

(Những dải băng bằng vàng càng thắt chặt) 
Họ gửi lời chào cuộc sống mến thương
Họ không quay về, không còn lối thoát.

V

Có ba chị em mù
(Hy vọng và hy vọng)
Ba chị em mù quáng
Có ba cây đèn vàng. 

Cả ba đi lên tháp

(Họ,  bạn và chúng tôi)
Cả ba cùng lên tháp
Chờ đợi trong bảy ngày… 

Ôi! – Một người kêu lên

(Hy vọng và hy vọng)
Ôi! – Một người kêu lên
Đèn của tôi chiếu sáng… 

Ôi! – Tiếng người thứ hai

(Họ, bạn và chúng tôi)
Ôi! – Người thứ hai nói 
Vua đang đi lên kìa…

Người thứ ba nói – Không!

(Hy vọng còn đâu nữa)
Người thần thánh nói – Không!
Và đèn tắt trong gió… 

VI

Người ta đến nói rằng
(Các con ơi, ta sợ)
Người ta đến nói rằng
Chàng đã không còn nữa… 

Ta thắp ngọn đèn lên

(Các con ơi, ta sợ)
Ta thắp ngọn đèn lên
Rồi ra đi với nó…   

Ở cánh cửa đầu tiên

(Các con ơi, ta sợ)
Ở cánh cửa đầu tiên
Thấy run run ngọn lửa…

Ở cánh cửa thứ hai

(Các con ơi, ta sợ)
Ở cánh cửa thứ hai
Ngọn lửa đang thầm thĩ…

Ở cánh cửa thứ ba

(Các con ơi, ta sợ)
Ở cánh cửa thứ ba
Ánh sáng không còn nữa…

VII

Bảy con gái của tiên
Khi mẹ họ đã chết
Bảy con gái của tiên
Đang tìm đường để thoát. 

Họ thắp bảy ngọn đèn

Chìa khóa ngày đâu mất 
Tìm khắp bốn trăm phòng 
Chỉ bóng đêm dày đặc.

Đến hang động âm thanh

Đi xuống theo thời gian
Bên cánh cửa đóng kín
Họ thấy chìa khóa vàng.

Nhìn thấy biển bao la

Các con gái sợ chết
Trước cánh cửa kín mít
Họ không dám mở ra. 

VIII

Nàng có ba chiếc vương miện bằng vàng
Và nàng đã tặng chúng cho ai vậy?

Chiếc thứ nhất nàng tặng cho cha mẹ

Và họ đem mua những chiếc lưới vàng
Đến tận mùa xuân giữ nàng trong đấy. 

Chiếc thứ hai tặng cho những người tình

Họ đem mua ba chiếc gông bằng bạc
Suốt mùa thu giữ nàng trong gông xiềng.

Chiếc thứ ba nàng tặng cho trẻ con

Chúng đem mua ba cái xích bằng sắt
Và giữ nàng trong suốt cả mùa đông.

IX 

Buổi sáng sớm nàng hướng về cung điện
– Lúc mặt trời chỉ vừa mới mọc lên – 
Buổi sáng sớm nàng hướng về cung điện
Những hiệp sĩ vội vàng đưa mắt nhìn
Còn phụ nữ tất cả đều im lặng.

Nàng dừng lại ở cửa vào cung điện

– Lúc mặt trời chỉ vừa mới mọc lên – 
Nàng dừng lại ở cửa vào cung điện
Chao! Nữ hoàng bước ra từ tĩnh lặng
Người chồng hỏi mà lo lắng phân vân. 

Nàng đi đâu vội vàng từ sáng sớm?

– Trời lờ mờ, liệu nhìn thấy gì không –
Nàng đi đâu vội vàng từ sáng sớm?
Liệu có ai đang đợi ở bên trong?
Nhưng nàng không trả lời, nàng im lặng. 

Hướng người phụ nữ xa lạ, nàng bước xuống

– Trời lờ mờ, liệu nhìn thấy gì không –
Hướng người phụ nữ xa lạ, nàng bước xuống
Người phụ nữ kia ôm chầm lấy, hôn nàng.
Họ không nói lời, ánh mắt cũng không
Hai người vội đi về nơi cần đến. 

Nhà vua ngồi khóc ở bên cung điện

– Trời lờ mờ, liệu nhìn thấy gì không –
Nhà vua ngồi khóc ở bên cung điện
Nghe dường như tiếng bước chân xa dần
Nghe như từng chiếc lá đang rơi xuống. 



X

Chàng trai đã ra đi
(Cửa rung lên – tôi biết)
Chàng trai đã ra đi
Nàng mỉm cười vĩnh biệt…

Chàng trai quay trở lại

(Đèn nói – tôi biết mà)
Chàng trai quay trở lại
Nhưng nàng đã đi xa…

Tôi nhìn ra cái chết

(Tôi biết tâm hồn chàng)
Tôi nhìn ra cái chết
Tôi đã lấy hồn anh…

XI 

Mẹ ơi, mẹ không nghe tiếng bước chân
Mẹ ơi, người đến để báo cho con… 
Con gái ơi, đưa bàn tay cho mẹ
Con gái ơi, con tàu sắp khởi hành… 

Ôi mẹ ơi, chúng ta phải dè chừng…

Ôi mẹ ơi, liệu người ta đến không…
Ôi mẹ ơi, chẳng lẽ không thể cứu?
Ôi mẹ ơi, con tàu đang mờ dần… 

Ôi mẹ ơi, nàng đang bước đến gần…

Con gái ơi, con tàu nằm trong cảng… 
Ôi mẹ ơi, nàng đã mở cửa toang… 
Con gái ơi, người ta đang bước đến… 

Ôi mẹ ơi, có ai đang đến gần

Con gái ơi, neo đã được nhổ lên…
Ôi mẹ ơi, nàng thì thầm gì đó… 
Con giá ơi, con tàu vừa đi ngang…

Ôi mẹ ơi, những ngôi sao nàng gom…

Con gái ơi, đấy là bóng của buồm… 
Ôi mẹ ơi, nàng đập vào cửa sổ…
Con gái ơi, cửa sổ chắc mở toang…

Ôi mẹ ơi, bóng đêm khắp mọi phía…

Con gái ơi, con tàu giữa biển khơi…
Mẹ ơi, con nghe thấy nàng khắp nơi…
Con gái ơi, con nói về ai thế?... 

XII

Các bạn thắp lên những ngọn đèn –
Còn tôi thấy mặt trời trong khu vườn –
Các bạn thắp lên những ngọn đèn.
Tôi thấy ánh mặt trời qua khe hở.
Hãy mở toang cánh cửa vào khu vườn!

Chìa khóa mở cửa đã đánh mất rồi

Thì chúng ta phải chờ đợi mà thôi.
Chìa khóa mở cửa đã đánh mất rồi
Thì chúng ta phải chờ đợi mà thôi.
Cần phải đợi đến một ngày nào đó… 

Ngày nào đó cánh cửa sẽ mở toang

Rừng của ta đã đóng cửa cài then
Và rừng sẽ cháy bừng trong ngọn lửa.
Những chiếc lá chết rõ ràng sáng tỏ
Gửi cho ta vẻ nghiệt ngã của mình. 

Những ngày nào đó mệt mỏi lắm rồi

Những ngày nào đó chắc gì đến được
Những ngày nào đó rồi đây cũng chết
Vẻ âu lo, nỗi sợ hãi dâng đầy
Ta sẽ chết cùng với chúng ở đây.

XIII

Tôi đi tìm ba mươi năm rồi, chị em ơi
Chàng trốn ở đâu đó?
Tôi lang thang ba mươi năm rồi, chị em ơi
Không tìm ra đâu cả… 

Ba mươi năm tôi thơ thẩn, chị em ơi

Đôi chân của tôi mệt lử
Chàng ở khắp mọi nơi, chị em ơi
Mà không nơi này nơi nọ… 

Giờ buồn đến gần rồi, chị em ơi

Buồn đau gần lắm
Buổi tối cũng chết, chị em ơi
Hồn tôi đau lắm… 

Em mới mười sáu tuổi, chị em ơi

Giờ đến lượt em rồi đấy
Hãy nhận lấy cây gậy này, chị em ơi
Rồi đi tìm cho thấy…  

XIV 

Có ba chị em muốn chết
Họ đội ba vương miện bằng vàng
Và họ ra đi tìm cái chết.

Cả ba chị em tìm đến khu rừng

– Rừng ơi, hãy cho chúng tôi xin cái chết
Chúng tôi xin dâng ba vương miện bằng vàng. 

Rừng mỉm cười với cả ba chị em

Và hôn họ, mỗi người mười hai lần
Chỉ cho họ điều trong tương lai sẽ đến. 

Có ba chị em muốn chết

Họ đi tìm đường ra biển – đại dương
Sau ba năm thì cũng gặp.

– Biển ơi, hãy cho chúng tôi xin cái chết

Chúng tôi xin dâng ba vương miện bằng vàng. 

Biển – đại dương gào lên khóc nức nở

Gửi cho họ ba trăm nụ hôn
Chỉ cho họ điều đã từng trong quá khứ.

Có ba chị em muốn chết

Họ đi tìm một thành phố vinh quang
Thành phố trên đảo cuối cùng tìm được. 

– Thành phố ơi, hãy cho chúng tôi xin cái chết

Chúng tôi xin dâng ba vương miện bằng vàng. 

Và thành phố chào đó họ hân hoan

Hôn họ bằng những nụ hôn cháy bỏng
Chỉ cho họ điều hiện tại họ đang.  

XV

Bài này lấy từ vở kịch “Chị Beatrice” (Sœur Beatrice).


Hồn nào đã từng đau

Lỗi lầm trong phút chốc
Ta mở những vì sao
Bằng đôi tay hồng phúc. 

Lỗi lầm không thể sống

Nơi tình yêu đau buồn
Linh hồn không thể chết
Nơi tình nước mắt tuôn.

Nếu ai đã từng yêu

Mà nếm mùi gian dối.
Nước mắt đến với ta
Không thể nào lạc lối.





Quinze Chansons

I
Elle l'enchaîna dans une grotte,
Elle fit un signe sur la porte ;
La vierge oublia la lumière
Et la clef tomba dans la mer.

Elle attendit les jours d'été :
Elle attendit plus de sept ans,
Tous les ans passait un passant.

Elle attendit les jours d'hiver ;
Et ses cheveux en attendant
Se rappelèrent la lumière.

Ils la cherchèrent, ils la trouvèrent,
Ils se glissèrent entre les pierres
Et éclairèrent les rochers.

Un soir un passant passe encore,
II ne comprend pas la clarté
Et n'ose pas en approcher.

II croit que c'est un signe étrange,
II croit que c'est une source d'or,
II croit que c'est un jeu des anges,
II se détourne et passe encore...

II
Et s'il revenait un jour
  Que faut-il lui dire?
- Dites-lui qu'on l'attendit
  Jusqu'à s'en mourir...

Et s'il m'interroge encore
  Sans me reconnaître?
- Parlez-lui comme une sœur,
  II souffre peut-être...

Et s'il demande où vous êtes
  Que faut-il repondre?
- Donnez-lui mon anneau d'or
  Sans rien lui répondre...

Et s'il veut savoir pourquoi
  La salle est déserte ?
- Montrez-lui la lampe éteinte
  Et la porte ouverte...

Et s'il m'interroge alors
  Sur la dernière heure?
- Dites-lui que j'ai souri
  De peur qu'il ne pleure...

III
Ils ont tué trois petites filles
Pour voir ce qu'il y a dans leur cœur.

Le premier était plein de bonheur ;
Et partout où coula son sang,
Trois serpents sifflèrent trois ans.

Le deuxième était plein de douceur,
Et partout où coula son sang,
Trois agneaux broutèrent trois ans.

Le troisième était plein de malheur,
Et partout où coula son sang,
Trois archanges veillèrent trois ans.

IV
Les filles aux yeux bandés
    (Ôtez les bandeaux d'or)
Les filles aux yeux bandés
Cherchent leurs destinées...

Ont ouvert à midi,
     (Gardez les bandeaux d'or)
Ont ouvert à midi,
Le palais des prairies...

Ont salué la vie,
    (Serrez les bandeaux d'or)
Ont salué la vie,
Et ne sont point sorties...

V
Les trois sœurs aveugles
    (Espérons encore)
Les trois sœurs aveugles
Ont leurs lampes d'or;

Montent à la tour,
    (Elles, vous et nous)
Montent à la tour,
Attendent sept jours...

Ah ! dit la première,
    (Espérons encore)
Ah ! dit la première,
J'entends nos lumières...

Ah ! dit la seconde,
    (Elles, vous et nous)
Ah ! dit la seconde,
C'est le roi qui monte...

Non, dit la plus sainte,
    (Espérons encore)
Non, dit la plus sainte,
Elles se sont éteintes...

VI
On est venu dire,
    (Mon enfant, j'ai peur)
On est venu dire
Qu'il allait partir...

Ma lampe allumée,
    (Mon enfant, j'ai peur)
Ma lampe allumée,
Me suis approchée...

À la première porte,
    (Mon enfant, j'ai peur)
A la première porte,
La flamme a tremblé...

À la seconde porte,
    (Mon enfant, j'ai peur)
À la seconde porte,
La flamme a parlé...

À la troisième porte,
    (Mon enfant, j'ai peur)
À la troisième porte,
La lumière est morte...

VII
Les sept filles d'Orlamonde,
    Quand la fée fut morte,
Les sept filles d'Orlamonde,
    Ont cherché les portes.

Ont allumé leurs sept lampes,
    Ont ouvert les tours,
Ont ouvert quatre cents salles,
    Sans trouver le jour...

Arrivent aux grottes sonores,
    Descendent alors ;
Et sur une porte close,
    Trouvent une clef d'or.

Voient l'océan par les fentes,
    Ont peur de mourir,
Et frappent à la porte close,
    Sans oser l'ouvrir...

VIII
Elle avait trois couronnes d'or,
À qui les donna-t-elle ?

Elle en donne une à ses parents:
Ont acheté trois réseaux d'or
Et l'ont gardée jusqu'au printemps.

Elle en donne une à ses amants:
Ont acheté trois rets d'argent
Et l'ont gardée jusqu'à l'automne

Elle en donne une à ses enfants:
Ont acheté trois nœuds de fer,
Et l'ont enchaînée tout l'hiver.

IX
Elle est venue vers le palais
- Le soleil se levait à peine -
Elle est venue vers le palais,
Les chevaliers se regardèrent
Toutes les femmes se taisaient.

Elle s'arrêta devant la porte
- Le soleil se levait à peine -
Elle s'arrêta devant la porte
On entendit marcher la reine
Et son époux l'interrogeait.

Où allez-vous, où allez-vous?
- Prenez garde, on y voit à peine -
Où allez-vous, où allez-vous?
Quelqu'un vous attend-il là-bas?
Mais elle ne répondait pas.

Elle descendit vers l'inconnue,
- Prenez garde, on y voit à peine -
Elle descendit vers l'inconnue,
L'inconnue embrassa la reine,
Elles ne se dirent pas un mot
Et s'éloignèrent aussitôt.

Son époux pleurait sur le seuil
- Prenez garde, on y voit à peine -
Son époux pleurait sur le seuil
On entendait marcher la reine
On entendait tomber les feuilles.

X
Quand l'amant sortit
(J'entendis la porte)
Quand l'amant sortit
Elle avait souri...

Mais quand il rentra
(J'entendis la lampe)
Mais quand il rentra
Une autre était là...

Et j'ai vu la mort
(J'entendis son âme)
Et j'ai vu la mort
Qui l'attend encore...

XI
Ma mère, n'entendez-vous rien?
Ma mère, on vient avertir...
Ma fille, donnez-moi vos mains.
Ma fille, c'est un grand navire...

Ma mère, il faut prendre garde...
Ma fille, ce sont ceux qui partent...
Ma mère, est-ce un grand danger?
Ma fille, il va s'éloigner...

Ma mère. Elle approche encore...
Ma fille, il est dans le port. r
Ma mère, Elle ouvre la porte...
Ma fille, ce sont ceux qui sortent.

Ma mère, c'est quelqu'un qui entre...
Ma fille, il a levé l'ancré.
Ma mère, Elle parle à voix basse...
Ma fille, ce sont ceux qui passent.

Ma mère, Elle prend les étoiles!...
Ma fille, c'est l'ombre des voiles.
Ma mère. Elle frappe aux fenêtres...
Ma fille, elles s'ouvrent peut-être...

Ma mère, on n'y voit plus clair...
Ma fille, il va vers la mer.
Ma mère, je l'entends partout...
Ma fille, de qui parlez-vous ?

XII
Vous avez allumé les lampes,
- Oh ! le soleil dans le jardin !
Vous avez allumé les lampes,
Je vois le soleil par les fentes,
Ouvrez les portes du jardin !

- Les clefs des portes sont perdues,
II faut attendre, il faut attendre,
Les clefs sont tombées de la tour,
II faut attendre, il faut attendre,
II faut attendre d'autres jours...

D'autres jours ouvriront les portes,
La forêt garde les verrous,
La forêt brûle autour de nous,
C'est la clarté des feuilles mortes,
Qui brûlent sur le seuil des portes...

- Les autres jours sont déjà las,
Les autres jours ont peur aussi,
Les autres jours ne viendront pas,
Les autres jours mourront aussi,
Nous aussi nous mourrons ici...

XIII
J'ai cherché trente ans, mes sœurs,
    Où s'est-il caché?
J'ai marché trente ans, mes sœurs,
    Sans m'en approcher...

J'ai marché trente ans, mes sœurs,
    Et mes pieds sont las,
II était partout, mes sœurs,
    Et n'existe pas...

L'heure est triste enfin, mes sœurs,
    Ôtez mes sandales,
Le soir meurt aussi, mes sœurs,
    Et mon âme a mal...

Vous avez seize ans, mes sœurs,
    Allez loin d'ici,
Prenez mon bourdon, mes sœurs,
    Et cherchez aussi...

XIV
Les trois sœurs ont voulu mourir
Elles ont mis leurs couronnes d'or
Et sont allées chercher leur mort.

S'en sont allées vers la forêt:
« Forêt, donnez-nous notre mort,
Voici nos trois couronnes d'or. »

La forêt se mit à sourire
Et leur donna douze baisers
Qui leur montrèrent l'avenir.

Les trois sœurs ont voulu mourir
S'en sont allées chercher la mer
Trois ans après la rencontrèrent:

« Ô mer donnez-nous notre mort,
Voici nos trois couronnes d'or. »

Et la mer se mit à pleurer
Et leur donna trois cents baisers,
Qui leur montrèrent le passé.

Les trois sœurs ont voulu mourir
S'en sont allées chercher la ville
La trouvèrent au milieu d'une île :

« Ô ville, donnez-nous notre mort,
Voici nos trois couronnes d'or. »

Et la ville, s'ouvrant à l'instant
Les couvrit de baisers ardents,
Qui leur montrèrent leur présent.

XV

Cantique de la Vierge dans « Sœur Béatrice »

À toute âme qui pleure,
A tout péché qui passe,
J'ouvre au sein des étoiles
Mes mains pleines de grâces.

Il n'est péché qui vive
Quand l'amour a parlé,
II n'est d'âme qui meure
Quand l'amour a pleuré...

Et si l'amour s'égare
Aux sentiers d'ici-bas,
Ses larmes me retrouvent
Et ne se perdent pas...





NÀNG ĐI TÌM KIẾM TÌNH

Nàng đi tìm kiếm tình

Ở những miền xa lạ
Nàng đi khắp thiên hạ
Khắp những cánh rừng hoang
Khắp núi đồi, biển cả.

Nàng đi tìm kiếm tình

Nhưng chẳng tìm thấy nó.

Khi trở về nhà mình

Trước cung điện của nàng
Có ông già gõ cửa
Ông dùng chiếc nhẫn vàng
Để đập vào cánh cửa.

– Ông già cần gì thế?

– Thấm thoát ba mươi năm
Từ ngày tôi biết em.
– Tôi cũng nhận ra ông.
– Tôi vẫn chờ vẫn đợi.

– Nhưng đầu ông bạc trắng!

– Tôi đợi ba mươi năm
Hãy đưa tay tôi nắm.
– Này ông, tôi vui lòng!
– Ba mươi năm đằng đẵng.



BẢY NĂM NÀNG BỊ KHÓA


Bảy năm nàng bị khóa

Trong một ngọn tháp cao
Bảy năm chẳng tìm đâu
Ra được chìa khóa cả
Mà nước chảy dưới cầu
Vẫn đổ về biển cả. 

Có một ông vua nọ

Có chiếc chìa khóa vàng
Gõ cửa nàng cả tuần
Nhưng chìa không hợp khóa.
– Tìm chìa khác ở đâu?
– Hãy tìm nơi biển cả.

Một người đàn ông khác

Có chiếc chìa khóa bạc
Cũng gõ cửa cả tuần
Nhưng chìa cũng không hợp
– Tìm ở đâu chìa khác?
– Hãy tìm nó trên rừng.

Rồi một kẻ nghèo hèn

Với chìa khóa bằng đồng
Nhưng cũng không mở được
Dù hì hục cả tuần
– Tìm ở đâu chìa khác?
– Ở sau đám mây đen.

Đến lượt chàng thanh niên

Có chiếc chìa khóa sắt
Chàng không hề khó nhọc
Mở ngay cửa bước vào.
– Anh tìm thấy ở đâu?
– Anh chỉ nhìn thấy nó
Ở ngay cửa ra vào.

Xem thêm:




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét