Octavio
Paz (1914-1998) - nhà thơ, nhà văn Mexico đoạt giải Nobel Văn học 1990 “vì những tác phẩm đầy nhiệt huyết được viết bằng trí tuệ mẫn cảm dựa trên những giá trị nhân văn cao cả”. Octavio Paz là nhà văn viết nhiều về những vấn đề của văn hóa, văn học. Những suy ngẫm của ông được viết bằng một ngôn ngữ phóng khoáng, mang đậm chất thơ ca, hướng về quá khứ lịch sử và cuộc sống của ngày hôm nay. Ông được đánh giá là một trong những nhà thơ uy tín nhất viết bằng tiếng Tây Ban Nha.
Tiểu sử:
Sinh ngày 31-3-1914 tại Mexico City. Là con một nhà báo nổi tiếng, từ nhỏ đã đọc các tác phẩm của văn học thế giới, mười tuổi đã in thơ, 19 tuổi xuất bản tập thơ Trăng hoang khi đang học luật tại Đại học Quốc gia Mexico. Năm 22 tuổi, ông sang Tây Ban Nha hoạt động xã hội, viết bài chống phát xít; năm 1939 trở về Mexico viết báo và đấu tranh cho quyền lợi người lao động.
Năm 1943, ông sang nghiên cứu văn hóa Mỹ với tư cách nghiên cứu sinh được học bổng của tổ chức Guggenheim. Thời kỳ này, O. Paz cho ra đời những tập thơ trữ tình đầy chất trí tuệ, hình tượng ẩn dụ như Cội rễ con người, Giữa đá và hoa, Tự do dưới lời thề...
Năm 1945, ông bắt đầu hoạt động ngoại giao ở Liên Hiệp quốc, làm đại sứ tại Pháp, Nhật Bản, Ấn Độ ... Năm 1968, ông từ chức để phản đối chính quyền Mexico đàn áp sinh viên, trở về nước tiếp tục viết văn. Năm 1972, O. Paz trở thành thành viên Viện Hàn lâm Mexico; năm 1981 được trao giải Miguel de Cervantes... Năm 1984 nhà nước Mexico tổ chức mừng thọ O. Paz kéo dài 5 ngày liên tục.
O. Paz là nhà văn viết nhiều về những vấn đề của văn hóa, văn học, những suy ngẫm của ông được viết bằng một ngôn ngữ phóng khoáng, mang đậm chất thơ ca, hướng về quá khứ lịch sử và cuộc sống của ngày hôm nay. Ông được đánh giá là một trong những nhà thơ uy tín nhất viết bằng tiếng Tây Ban Nha.
Năm 1990, ông được trao giải Nobel với toàn thể 15 phiếu đồng tình, một điều chưa từng thấy trong lịch sử giải. O. Paz mất ngày 20-4-1998 tại Mexico City.
Tác phẩm:
* Vầng trăng màu ánh bạc (Luna silvestre, 1933), thơ.
* Cội rễ con người (Raiz del hombre, 1937), thơ.
* Giữa đá và hoa (Entre la piedra y flor, 1941), thơ.
* Nơi tận cùng thế giới (A la orilla del mundo, 1942),
* Tự do dưới lời thề (Libretad bajo palabra, 1948), thơ.
* Mê cung của nỗi cô đơn (El laberinto de la soledad, 1950), biên khảo
* Chim đại bàng hay mặt trời (Aguila o sol, 1951), thơ.
* Cây cung và đàn Lyre (El arco y la lira, 1956), biên khảo về thơ
* Bóng mát cây du (Las peras del olmo, 1957), phê bình văn học.
* Đá mặt trời (Piedra del sol, 1957), trường ca.
* Salamandra (1962), thơ.
* Dòng điện xoay chiều (Corriente alterna, 1967), tiểu luận.
* Blanco (1967), thơ.
* Miền dốc phía Đông (East slope, 1968), thơ.
* Lâu đài thanh khiết (El castillo de la pureza, 1968), tiểu luận.
* Bờ phía Đông (Ladera Este, 1969), thơ.
* Lúa mạch (La centena, 1969), thơ.
* Những dòng tái bút (Posdata, 1970), khảo cứu.
* Các hình thể (Topoemas, 1971), thơ
* Những đứa trẻ bùn lầy (Los hijos del limo, 1974), tiểu luận
* Nhà ngữ pháp khỉ (El mono gramatico, 1974), thơ
Tiểu sử:
Sinh ngày 31-3-1914 tại Mexico City. Là con một nhà báo nổi tiếng, từ nhỏ đã đọc các tác phẩm của văn học thế giới, mười tuổi đã in thơ, 19 tuổi xuất bản tập thơ Trăng hoang khi đang học luật tại Đại học Quốc gia Mexico. Năm 22 tuổi, ông sang Tây Ban Nha hoạt động xã hội, viết bài chống phát xít; năm 1939 trở về Mexico viết báo và đấu tranh cho quyền lợi người lao động.
Năm 1943, ông sang nghiên cứu văn hóa Mỹ với tư cách nghiên cứu sinh được học bổng của tổ chức Guggenheim. Thời kỳ này, O. Paz cho ra đời những tập thơ trữ tình đầy chất trí tuệ, hình tượng ẩn dụ như Cội rễ con người, Giữa đá và hoa, Tự do dưới lời thề...
Năm 1945, ông bắt đầu hoạt động ngoại giao ở Liên Hiệp quốc, làm đại sứ tại Pháp, Nhật Bản, Ấn Độ ... Năm 1968, ông từ chức để phản đối chính quyền Mexico đàn áp sinh viên, trở về nước tiếp tục viết văn. Năm 1972, O. Paz trở thành thành viên Viện Hàn lâm Mexico; năm 1981 được trao giải Miguel de Cervantes... Năm 1984 nhà nước Mexico tổ chức mừng thọ O. Paz kéo dài 5 ngày liên tục.
O. Paz là nhà văn viết nhiều về những vấn đề của văn hóa, văn học, những suy ngẫm của ông được viết bằng một ngôn ngữ phóng khoáng, mang đậm chất thơ ca, hướng về quá khứ lịch sử và cuộc sống của ngày hôm nay. Ông được đánh giá là một trong những nhà thơ uy tín nhất viết bằng tiếng Tây Ban Nha.
Năm 1990, ông được trao giải Nobel với toàn thể 15 phiếu đồng tình, một điều chưa từng thấy trong lịch sử giải. O. Paz mất ngày 20-4-1998 tại Mexico City.
Tác phẩm:
* Vầng trăng màu ánh bạc (Luna silvestre, 1933), thơ.
* Cội rễ con người (Raiz del hombre, 1937), thơ.
* Giữa đá và hoa (Entre la piedra y flor, 1941), thơ.
* Nơi tận cùng thế giới (A la orilla del mundo, 1942),
* Tự do dưới lời thề (Libretad bajo palabra, 1948), thơ.
* Mê cung của nỗi cô đơn (El laberinto de la soledad, 1950), biên khảo
* Chim đại bàng hay mặt trời (Aguila o sol, 1951), thơ.
* Cây cung và đàn Lyre (El arco y la lira, 1956), biên khảo về thơ
* Bóng mát cây du (Las peras del olmo, 1957), phê bình văn học.
* Đá mặt trời (Piedra del sol, 1957), trường ca.
* Salamandra (1962), thơ.
* Dòng điện xoay chiều (Corriente alterna, 1967), tiểu luận.
* Blanco (1967), thơ.
* Miền dốc phía Đông (East slope, 1968), thơ.
* Lâu đài thanh khiết (El castillo de la pureza, 1968), tiểu luận.
* Bờ phía Đông (Ladera Este, 1969), thơ.
* Lúa mạch (La centena, 1969), thơ.
* Những dòng tái bút (Posdata, 1970), khảo cứu.
* Các hình thể (Topoemas, 1971), thơ
* Những đứa trẻ bùn lầy (Los hijos del limo, 1974), tiểu luận
* Nhà ngữ pháp khỉ (El mono gramatico, 1974), thơ
Một
số bài thơ
MAITHUNA(1)
Đôi mắt anh
mở ra đôi cánh
của vẻ đẹp phơi trần.
Em
ở trong vòng tù hãm
bão táp, mưa giông
của mắt nhìn âu yếm.
Luồng âm thanh
mở ra trong buổi sớm
tuyết mộng của bình minh
trắng hơn đùi em trắng.
Tiếng cười của em
là tiếng lá xạc xào, luống cuống
ánh trăng thanh
là chiếc áo của em
trong đêm trải rộng.
Nổ tung vào ánh trăng
nhổm phắt dậy khỏi giường
chiếc lò xo hay hát
rồi bay lên
cắt vào màu đêm trắng toát
của mặt nước hồ.
*
Và đã vỡ tung ra
tia sáng của anh
trên mặt hồ
bóng tối của em.
Và tiếng thét
vang lên
mở ra chiếc bóng
nhưng –
bao nhiêu thể xác
tất cả đều
hòa nhập vào
làm một…
*
Và đây
đường thẳng đứng
khao khát đường ngang
viền khung gương rung lên
hồi tưởng
và bỗng nhiên rơi xuống
hai bàn tay anh giữa những dòng sông.
*
Em đang bơi vào trong
khói sương mờ mịt
và nhanh như tia chớp
bóng sáng của em
trong vòng tay âu yếm của anh.
Nhưng – tối sầm thân thể của em
nhảy lên bờ cát
những con cá dolphin
hỏi: “khi nào?”
“tại vì sao?”, “không lẽ thế?”
từ nụ cười của em
sáng trên người em chiếc áo trăng
và đôi mắt anh ẩm ướt
và cơ thể em quấn chặt
bằng ngọn lửa bừng lên chiếc bóng của em
những cây đu rung rinh
như trẻ con sợ hãi
và ngó nhìn
từ vẻ trần truồng sâu thẳm
đôi mắt em nhìn vào ánh sáng
của tình yêu:
bay trên nỗi niềm đắng cay khổ tận
những chiếc lá, những cánh hoa hồng
và thân thể em càng sáng hơn
thì càng tối hơn chiếc bóng
em cười nhạo màu vàng
tro bụi của em…
*
Mặt trời Bourgogne(2)
rượu vang và tội lỗi
lưỡi từ lửa hồng
máu của đảo hay là đống củi?
Mái tóc em phủ xuống người anh
và trên ngực của em:
nét chữ này không dễ biết
nơi tấm vải trải giường – thêu dệt
bởi một trăm chiếc kim khâu
nét chữ của tình yêu – nhìn vào
áo quần em trút hết…
trò chơi với anh
suốt đời yêu chỉ một
và giọng nói của em
vang trong chiếc bình
đựng đầy thuốc sắc
là dấu hiệu của qui luật muôn đời
vẻ oi bức và nóng
của con rắn mệt đến rã rời
đến tận cùng chóp ngọn
nơi tuyết trắng tinh – nhưng quầng tán
của cơn mưa
dưới cơn mưa đã chín những chùm nho
khi sờ lên mỗi ngón tay run rẩy
cơn mưa rào sôi nổi
như tia sáng cầu may
cho sự báo ân, báo oán sau này
và xác thịt, và khung cửi
nơi trong đêm này căng ra tấm vải
những chiếc lá tả tơi
bởi sức ép thẳng của ai
nơi mờ ảo giữa mặt trời
và đêm vắng
nơi hàng cây đứng lặng
còn cái chết –
như tiếng xào xạc khôn nguôi…
*
Ngày hôm qua
trên giường của em
có ba người
là anh và em, và - trăng sáng.
*
Đột ngột xông vào
bờ môi đêm của em:
một miền của nước
và tiếng kêu ì oạp
của ngọn sóng triều dâng
nước xao xuyến, lâng lâng…
*
Ngủ quên trong em chăng
mà tốt hơn – thức giấc
mở mắt vào phần giữa của em
đen trắng, trắng đen
rõ là quỉ tha ma bắt –
mặt trời không ngủ
và trí nhớ đung đưa như ngọn lửa
ngọn lửa của anh
trong trí nhớ của em.
*
Và mây đen
như xe chở nước
và tin tức –
trên bề mặt con dao
trên ngọn dao
nhỏ giọt
và tuyết
và bếp lò
của cuộc truy hoan
và ngọn lửa
đốt lên lần gặp gỡ
của ngôn ngữ đa thần
với bông hồng rung rinh
và lời bập bẹ
thì thầm
của những cánh hoa…
__________(1)Cặp uyên ương trong văn hoá thờ cúng của người theo Ấn Độ giáo. Theo họ - đây là một trong những con đường để đạt đến Thượng Đế; sự hòa nhập thể xác dẫn con người về Nguồn Sáng…
(2)Một tỉnh của nước Pháp nằm ở lưu vực sông Seine, nơi sản xuất những loại rượu vang hảo hạng nổi tiếng thế giới.
Maithuna
Mis ojos te descubren
Desnuda
Y te cubren
Con una lluvia cálida
De miradas
Una jaula de sonidos
Abierta
En plena mañana
Más blanca
Que tus nalgas
En plena noche
Tu risa
O más bien tu follaje
Tu camisa de luna
Al saltar de la cama
Luz cernida
La espiral cantante
Devana la blancura
Fijeza plantada en un abra
Mi día
En tu noche
Revienta
Tu grito
Salta en pedazos
La noche
Esparce
Tu cuerpo
Resaca
Tus cuerpos
Se anudan
Otra vez tu cuerpo
Hora vertical
La sequía
Mueve sus ruedas espejeantes
Jardín de navajas
Festín de falacias
Por esas reverberaciones
Entras
Ilesa
En el río de mis manos
Más rápida que la fiebre
Nadas en lo oscuro
Tu sombra es más clara
Entre las caricias
Tu cuerpo es más negro
Saltas
A la orilla de lo improbable
Toboganes de cómo cuando porque sí
Tu risa incendia tu ropa
Tu risa
Moja mi frente mis ojos mis razones
Tu cuerpo incendia tu sombra
Te meces en el trapecio del miedo
Los terrores de tu infancia
Me miran
Desde tus ojos de precipicio
Abiertos
En el acto de amor
Sobre el precipicio
Tu cuerpo es más claro
Tu sombra es más negra
Tú ríes sobre tus cenizas
Lengua borgoña de sol flagelado
Lengua que lame tu país de dunas insomnes
Cabellera
Lengua de látigos
Lenguajes
Sobre tu espalda desatados
Entrelazados
Sobre tus senos
Escritura que te escribe
Con letras aguijones
Te niega
Con signos tizones
Vestidura que te desviste
Escritura que te viste de adivinanzas
Escritura en la que me entierro
Cabellera
Gran noche súbita sobre tu cuerpo
Jarra de vino caliente
Derramado
Sobre las tablas de la ley
Nudo de aullidos y nube de silencios
Racimo de culebras
Racimo de uvas
Pisoteadas
Por las heladas plantas de la luna
Lluvia de manos de hojas de dedos de viento
Sobre tu cuerpo
Sobre mi cuerpo sobre tu cuerpo
Cabellera
Follaje del árbol de huesos
El árbol de raíces aéreas que beben noche en el sol
El árbol carnal El árbol mortal
Anoche
En tu cama
Éramos tres:
Tú yo la luna
Abro
Los labios de tu noche
Húmedas oquedades
Ecos
Desnacimientos:
Blancor
Súbito de agua
Desencadenada
Dormir dormir en ti
O mejor despertar
Abrir los ojos
En tu centro
Negro blanco negro
Blanco
Ser sol insomne
Que tu memoria quema
(Y
La memoria de mí en tu memoria
Y nueva nubemente sube
Savia
(Salvia te llamo
Llama)
El tallo
Estalla
(Llueve
Nieve ardiente)
Mi lengua está
Allá
(En la nieve se quema
Tu rosa)
Está
Ya
(Sello tu sexo)
El alba
Salva.
THÂN THỂ TRONG TẦM NHÌN
Và bóng tối mở ra, một thân thể phô bày
Suối tóc của em
Rừng rậm mùa thu với dòng nước mặt trời lấp lóa
Miệng em, và hàm răng trắng xóa
Bị giam cầm trong lửa thú nhe răng
Làn da em có màu của một cục đường nung
Những nơi chốn thời gian không biết đến
Môi anh chỉ quen với miền thung lũng
Hẻm đầy trăng giữa hai bầu vú nhô lên
Bụng của em là một vùng cao nguyên
Gáy là thác nước đã hóa thành thác đá
Một bãi biển bao la trải xuống bên sườn.
Đôi mắt của em như mắt hổ gườm gườm
Sau phút chốc – lại là mắt ướt buồn của chó.
Lưng em dưới mắt anh nhìn trải đều lặng lẽ
Tựa như lưng sông trong lửa cháy bập bùng.
Cả ngày đêm dòng nước ngủ mơ màng
Vỗ vào eo lưng có màu đất sét
Còn trên bãi biển của em dài không hết
Như cát ở dưới ánh trăng
Gió thổi vào miệng anh và lời gió thở than
Choàng đôi cánh của mình màu xám
Lên những thân thể trong đêm vắng
Như chiếc bóng của đại bàng
Cô đơn trên những cánh đồng hoang.
Móng chân của em như ánh thuỷ tinh mùa hạ.
Giữa hai chân em một giếng nước ngủ im lìm
Đó là vịnh, nơi biển đêm lặng ngừng
Là con ngựa đen sùi bọt mép
Là hang động dưới chân núi giấu đầy báu vật
Là miệng bếp lò nướng bánh tế thần tiên
Là đôi môi mỉm cười ác độc của em
Là sự lên ngôi của ánh sáng và bóng tối
Của cái nhìn thấy và cái không nhìn thấy
(ở đó da thịt hồi sinh và cuộc sống kéo dài).
Xứ sở của máu, miền đất có một không hai
Từng biết đến anh và anh đã từng biết đến
Là xứ sở duy nhất mà anh tin tưởng
Là lối vào duy nhất dẫn tới vô cùng.
Cuerpo a la vista
Y las sombras se abrieron otra vez y mostraron un cuerpo:
tu pelo, otoño espeso, caída de agua solar,
tu boca y la blanca disciplina de sus dientes caníbales,
prisioneros en llamas,
tu piel de pan apenas dorado y tus ojos de azúcar quemada,
sitios en donde el tiempo no transcurre,
valles que sólo mis labios conocen,
desfiladero de la luna que asciende a tu garganta entre
tus senos,
cascada petrificada de la nuca,
alta meseta de tu vientre,
playa sin fin de tu costado.
Tus ojos son los ojos fijos del tigre
y un minuto después son los ojos húmedos del perro.
Siempre hay abejas en tu pelo.
Tu espalda fluye tranquila bajo mis ojos
como la espalda del río a la luz del incendio.
Aguas dormidas golpean día y noche tu cintura de arcilla
y en tus costas, inmensas como los arenales de la luna,
el viento sopla por mi boca y su largo quejido cubre con
sus dos alas grises
la noche de los cuerpos,
como la sombra del águila la soledad del páramo.
Las uñas de los dedos de tus pies están hechas del cristal
del verano.
Entre tus piernas hay un pozo de agua dormida,
bahía donde el mar de noche se aquieta, negro caballo
de espuma,
cueva al pie de la montaña que esconde un tesoro,
boca del horno donde se hacen las hostias,
sonrientes labios entreabiertos y atroces,
nupcias de la luz y la sombra, de lo visible y lo invisible
(allí espera la carne su resurrección y el día de la vida
perdurable).
Patria de sangre,
única tierra que conozco y me conoce,
única patria en la que creo,
única puerta al infinito.
HÃY NGHE ANH NHƯ LÀ NGHE MƯA
Hãy nghe anh như là nghe mưa
và hãy nghe anh – một chút hững hờ –
nước, như không khí, rơi tí tách, xào xạc
và như không khí, thời gian
ngày không tàn
đêm không đến
cái mặt nạ hoàng hôn
treo sau cổng
cái mặt nạ thời gian
trong nếp gấp của dòng thơ kìm hãm
hãy nghe anh như là nghe mưa
em hãy lắng nghe mà chẳng nghe ra
vào chính bản thân mình, em hãy ngắm
rồi thiếp ngủ khi canh chừng tình cảm
tí tách mỗi giọt lời
lời nhẹ tênh, còn nước đang sôi:
ta là những người đã từng, là những người đang sống
giây phút này và năm tháng
thời gian nhẹ hơn, nỗi buồn không biết lấy gì đo
hãy nghe anh như là nghe mưa
tất cả ánh lên như nhựa đường ẩm ướt
bốc lên, rồi bơi trong hơi nước
màn đêm buông xuống bằng hình dáng của em
bằng đôi mắt của em nhìn vào anh
còn đêm giống như khuôn mặt
của tia chớp, bập bềnh trên mái tóc
chạy qua đường, em đến với anh
từng giọt nước rơi từ thế kỷ của mình…
hãy nghe anh như là nghe mưa
em đi qua đường phố sương mờ
đó là màn sương bơi trên đường phố
đó là đêm trên chiếc giường em đó
là con sóng vỗ bờ trong hơi thở của em
những ngón tay em ép vào mắt, vào vầng trán của anh
những ngón tay em mí mắt của thời gian đang mở
những ngày cuối tuần, những lần gặp gỡ
hãy nghe anh như là nghe mưa
năm tháng đi qua
Hãy nghe anh như là nghe mưa
và hãy nghe anh – một chút hững hờ –
nước, như không khí, rơi tí tách, xào xạc
và như không khí, thời gian
ngày không tàn
đêm không đến
cái mặt nạ hoàng hôn
treo sau cổng
cái mặt nạ thời gian
trong nếp gấp của dòng thơ kìm hãm
hãy nghe anh như là nghe mưa
em hãy lắng nghe mà chẳng nghe ra
vào chính bản thân mình, em hãy ngắm
rồi thiếp ngủ khi canh chừng tình cảm
tí tách mỗi giọt lời
lời nhẹ tênh, còn nước đang sôi:
ta là những người đã từng, là những người đang sống
giây phút này và năm tháng
thời gian nhẹ hơn, nỗi buồn không biết lấy gì đo
hãy nghe anh như là nghe mưa
tất cả ánh lên như nhựa đường ẩm ướt
bốc lên, rồi bơi trong hơi nước
màn đêm buông xuống bằng hình dáng của em
bằng đôi mắt của em nhìn vào anh
còn đêm giống như khuôn mặt
của tia chớp, bập bềnh trên mái tóc
chạy qua đường, em đến với anh
từng giọt nước rơi từ thế kỷ của mình…
hãy nghe anh như là nghe mưa
em đi qua đường phố sương mờ
đó là màn sương bơi trên đường phố
đó là đêm trên chiếc giường em đó
là con sóng vỗ bờ trong hơi thở của em
những ngón tay em ép vào mắt, vào vầng trán của anh
những ngón tay em mí mắt của thời gian đang mở
những ngày cuối tuần, những lần gặp gỡ
hãy nghe anh như là nghe mưa
năm tháng đi qua
rồi
lại về trong từng khoảnh khắc thôi mà
em có nghe ra tiếng bước chân của mình đâu đó?
ta nghe tiếng bước chân cả nơi này, nơi nọ
cả bây giờ, cả trong ngày tháng xa xăm
em hãy nghe bước chân của thời gian
trên những con đường không còn dấu vết
em hãy nghe trên thềm mưa rơi tí tách
đêm đang chuyển màu hồng
tia sáng bện vào chiếc lá như tổ ong
khu vườn rùng mình thức dậy
Em hãy bước vào
em có nghe ra tiếng bước chân của mình đâu đó?
ta nghe tiếng bước chân cả nơi này, nơi nọ
cả bây giờ, cả trong ngày tháng xa xăm
em hãy nghe bước chân của thời gian
trên những con đường không còn dấu vết
em hãy nghe trên thềm mưa rơi tí tách
đêm đang chuyển màu hồng
tia sáng bện vào chiếc lá như tổ ong
khu vườn rùng mình thức dậy
Em hãy bước vào
bóng
của em nằm trên trang giấy(1).
________________
(1) Octavio Paz quả là khó cảm nhận. Có thể, chìa khóa để hiểu thơ ông là chính những lời ông: “Hiểu thơ - trước hết là phải nghe thơ. Đọc thơ - nghĩa là nghe bằng mắt; nghe thơ - nghĩa là đọc bằng tai. Thơ phải khiêu khích người đọc, buộc người đọc phải lắng nghe – và nghe ra”.
Como quien oye llover
Óyeme como quien oye llover,
ni atenta ni distraída,
pasos leves, llovizna,
agua que es aire, aire que es tiempo,
el día no acaba de irse,
la noche no llega todavía,
figuraciones de la niebla
al doblar la esquina,
figuraciones del tiempo
en el recodo de esta pausa,
óyeme como quien oye llover,
sin oírme, oyendo lo que digo
con los ojos abiertos hacia adentro,
dormida con los cinco sentidos despiertos,
llueve, pasos leves, rumor de sílabas,
aire y agua, palabras que no pesan:
lo que fuimos y somos,
los días y los años, este instante,
tiempo sin peso, pesadumbre enorme,
óyeme como quien oye llover,
relumbra el asfalto húmedo,
el vaho se levanta y camina,
la noche se abre y me mira,
eres tú y tu talle de vaho,
tú y tu cara de noche,
tú y tu pelo, lento relámpago,
cruzas la calle y entras en mi frente,
pasos de agua sobre mis párpados,
óyeme como quien oye llover,
el asfalto relumbra, tú cruzas la calle,
es la niebla errante en la noche,
como quien oye llover
es la noche dormida en tu cama,
es el oleaje de tu respiración,
tus dedos de agua mojan mi frente,
tus dedos de llama queman mis ojos,
tus dedos de aire abren los párpados del tiempo,
manar de apariciones y resurrecciones,
óyeme como quien oye llover,
pasan los años, regresan los instantes,
¿oyes tus pasos en el cuarto vecino?
no aquí ni allá: los oyes
en otro tiempo que es ahora mismo,
oye los pasos del tiempo
inventor de lugares sin peso ni sitio,
oye la lluvia correr por la terraza,
la noche ya es más noche en la arboleda,
en los follajes ha anidado el rayo,
vago jardín a la deriva
entra, tu sombra cubre esta página.
HAI THÂN THỂ
Hai thân thể đối mặt nhau
Như hai con sóng bạc đầu
Và đêm là biển cả.
Hai thân thể đối mặt nhau
Đôi khi là hai hòn đá
Và đêm là sa mạc hoang vu.
Hai thân thể đối mặt nhau
Đôi khi là hai bộ rễ
Đêm đêm vấn vít vào nhau.
Hai thân thể đối mặt nhau
Đôi khi là hai con dao
Và đêm đêm sấm chớp.
Hai thân thể đối mặt nhau
Đôi khi là hai ngôi sao
Rơi trong một bầu trời rỗng.
Dos cuerpos
Dos cuerpos frente a frente
son a veces dos olas
y la noche es océano.
Dos cuerpos frente a frente
son a veces dos piedras
y la noche desierto.
Dos cuerpos frente a frente
son a veces raíces
en la noche enlazadas.
Dos cuerpos frente a frente
son a veces navajas
y la noche relámpago.
Dos cuerpos frente a frente
son dos astros que caen
en un cielo vacío.
Hai thân thể đối mặt nhau
Như hai con sóng bạc đầu
Và đêm là biển cả.
Hai thân thể đối mặt nhau
Đôi khi là hai hòn đá
Và đêm là sa mạc hoang vu.
Hai thân thể đối mặt nhau
Đôi khi là hai bộ rễ
Đêm đêm vấn vít vào nhau.
Hai thân thể đối mặt nhau
Đôi khi là hai con dao
Và đêm đêm sấm chớp.
Hai thân thể đối mặt nhau
Đôi khi là hai ngôi sao
Rơi trong một bầu trời rỗng.
Dos cuerpos
Dos cuerpos frente a frente
son a veces dos olas
y la noche es océano.
Dos cuerpos frente a frente
son a veces dos piedras
y la noche desierto.
Dos cuerpos frente a frente
son a veces raíces
en la noche enlazadas.
Dos cuerpos frente a frente
son a veces navajas
y la noche relámpago.
Dos cuerpos frente a frente
son dos astros que caen
en un cielo vacío.
BÊN BIỂN
Hình thù của sóng ra sao?
Sóng nhào nặn mình, lấp lóa
Sóng rì rào, mệt lử
Lên con sóng khác xô vào
Sự chuyển động – là hình thù của sóng.
Biển không thể nào khao khát
Biển trăn trở đến bình minh
Trên chiếc giường bằng đá của mình
Khát khao gió, rồi biển chết.
Frente al mar
1
¿La ola no tiene forma?
En un instante se esculpe
y en otro se desmorona
en la que emerge, redonda.
Su movimiento es su forma.
2
Las olas se retiran
?ancas, espaldas, nucas?
pero vuelven las olas
?pechos, bocas, espumas?.
3
Muere de sed el mar.
Se retuerce, sin nadie,
en su lecho de rocas.
Muere de sed de aire.
VE VUỐT
Bàn tay anh
Vén tung bức màn trên cơ thể của em
Mặc vào cho em một vẻ trần trụi mới
Mở ra những thân thể trong thân thể của em.
Bàn tay anh
Bày đặt cho em một thân thể mới.
Palpar
Mis manos
abren las cortinas de tu ser
te visten con otra desnudez
descubren los cuerpos de tu cuerpo
Mis manos
inventan otro cuerpo a tu cuerpo.
ĐƯỜNG PHỐ
Trên một con phố dài và yên lặng.
Tôi đi trong bóng đêm và tôi ngã xuống
rồi lại đứng lên, mù quáng cả bàn chân
những chiếc lá thì khô, đá thì câm nín
và dường như có ai đó bước sau lưng
tôi ngừng – hắn cũng ngừng. Tôi chạy –
hắn cũng chạy. Nhìn lại: chẳng có ai.
Không có lối ra, bóng tối khắp nơi
chẳng có ai, chỉ mình tôi vùng vẫy
chỉ mình tôi, trước mặt là đường phố
nơi dường như tôi theo gót một người
người này vấp ngã rồi liền đứng dậy
nhìn sang tôi và nói: chẳng có ai.
La calle
Es una calle larga y silenciosa.
Ando en tinieblas y tropiezo y caigo
y me levanto y piso con pies ciegos
las piedras mudas y las hojas secas
y alguien detrás de mí también las pisa:
si me detengo, se detiene;
si corro, corre. Vuelvo el rostro: nadie.
Todo está oscuro y sin salida,
y doy vueltas y vueltas en esquinas
que dan siempre a la calle
donde nadie me espera ni me sigue,
donde yo sigo a un hombre que tropieza
y se levanta y dice al verme: nadie.
VIẾT BẰNG MỰC XANH
Bằng mực xanh tôi tạo ra rừng, khu vườn, đồng cỏ
và chiếc lá, nơi con chữ hát lên
tôi tạo những lời – là những cây xanh
và những câu – là những vì tinh tú.
Hãy để lời anh rơi trên cơ thể màu trắng của em
như cơn mưa lá rơi trên đồng tuyết trắng
như dây thường xuân leo quanh bức tượng
như trang giấy này viết bởi mực xanh.
Cho lời rơi trên tay, trên ngực và trên cổ
trên trán em như biển trong xanh
rơi trên mái tóc có màu hạt dẻ
và hàm răng cắn cọng cỏ thơm nồng.
Thân thể em như cây cối mùa xuân
được trang điểm bằng mực xanh anh đó.
Em hãy nhìn vào bầu trời sáng tỏ
trong hình xăm của những ngôi sao xanh.
Escrito con tinta verde
La tinta verde crea jardines, selvas, prados,
follajes donde cantan las letras,
palabras que son árboles,
frases que son verdes constelaciones.
Deja que mis palabras, oh blanca, desciendan y te cubran
como una lluvia de hojas a un campo de nieve,
como la yedra a la estatua,
como la tinta a esta página.
Brazos, cintura, cuello, senos,
la frente pura como el mar,
la nuca de bosque en otoño,
los dientes que muerden una brizna de yerba.
Tu cuerpo se constela de signos verdes
como el cuerpo del árbol de renuevos.
No te importe tanta pequeña cicatriz luminosa:
mira al cielo y su verde tatuaje de estrellas.
NƯỚC ĐÊM
Đêm với đôi mắt của ngựa lo lắng trong đêm
đêm với đôi mắt của nước đang ngủ trên đồng
trong đôi mắt em – con ngựa đang lo lắng
và nước bí huyền trong đôi mắt của em.
Mắt của nước đêm
mắt của nước giếng
mắt của giấc mơ sông.
Sự tĩnh lặng và sự cô đơn
giống như hai con thú nhỏ nhìn trăng
và uống từ đôi mắt em đó
uống từ vùng nước của đêm.
Nếu em mở mắt xem
thì đêm mở cửa của xạ hương
vào vương quốc bí huyền của nước
chảy từ nơi tâm điểm của bóng đêm.
Còn nếu em nhắm đôi mắt của mình
thì dòng sông tĩnh lặng tràn ngập từ bên trong
em đối với anh tối tăm và xa vắng
đêm sẽ ngập tràn khoảng trống giữa hồn em.
Agua nocturna
La noche de ojos de caballo que tiemblan en la noche,
la noche de ojos de agua en el campo dormido,
está en tus ojos de caballo que tiembla,
está en tus ojos de agua secreta.
Ojos de agua de sombra,
ojos de agua de pozo,
ojos de agua de sueño.
El silencio y la soledad,
como dos pequeños animales a quienes guía la luna,
beben en esos ojos,
beben en esas aguas.
Si abres los ojos,
se abre la noche de puertas de musgo,
se abre el reino secreto del agua
que mana del centro de la noche.
Y si los cierras,
un río, una corriente dulce y silenciosa,
te inunda por dentro, avanza, te hace oscura:
la noche moja riberas en tu alma.
GIÓ, ĐÁ VÀ NƯỚC NGUỒN
Tặng Roger Caillois
Nước chảy làm mòn đá
gió thổi dạt nước nguồn
đá biết cách giữ gió.
Gió, đá và nước nguồn.
Gió làm tan cả đá
đá – ly đựng nước nguồn
nước chảy ra là gió.
Gió, đá và nước nguồn.
Gió hát trong cơn giông
nước thì thầm chuyển động
đá đứng yên, im lặng.
Gió, đá và nước nguồn.
Giống nhau mà lại khác:
giữa những tên trống không
xuất hiện rồi biến mất
gió, đá và nước nguồn.
Viento, agua, piedra
A Roger Caillois
El agua horada la piedra,
el viento dispersa el agua,
la piedra detiene al viento.
Agua, viento, piedra.
El viento esculpe la piedra,
la piedra es copa del agua,
el agua escapa y es viento.
Piedra, viento, agua.
El viento en sus giros canta,
el agua al andar murmura,
la piedra inmóvil se calla.
Viento, agua, piedra.
Uno es otro y es ninguno:
entre sus nombres vacíos
pasan y se desvanecen
agua, piedra, viento.
CÔ BÉ
Bạn gọi tên “cây” phải không cô bé.
Và cây lớn lên chầm chậm, lá đầy tràn
và tràn ngập cả một bầu không khí
chói lóa mắt ta bởi một màu xanh
cho đến khi mắt ta chưa thành xanh như thế.
Bạn gọi tên “bầu trời” phải không cô bé.
Thì có những làn mây trắng giữa trời xanh
và ánh sáng trong buổi bình minh
vào con tim của ta hỏi nhỏ
một khi tim chưa thành một khoảng trời trong.
Bạn gọi tên “nước” phải không cô bé.
Và dòng nước chảy mà ta không biết từ đâu
tưới lên khắp mặt đất đen màu
bông hoa nở ra sáng ngời trên lá
và chuyển đổi ta thành hơi ẩm không màu.
Em không nói gì phải không cô bé.
Từ sự im lặng nảy sinh
ra cuộc sống
trên sóng nhạc màu vàng
trên con sóng triều dâng
đưa chúng ta lên đỉnh
rồi đưa ta trở lại với chính mình.
Cô bé ơi, em đưa tôi lên, làm tôi hồi sinh!
Con sóng tận cùng, muôn đời, không giới hạn!
Niña
Nombras el árbol, niña.
Y el árbol crece, lento y pleno,
anegando los aires,
verde deslumbramiento,
hasta volvernos verde la mirada.
Nombras el cielo, niña.
Y el cielo azul, la nube blanca,
la luz de la mañana,
se meten en el pecho
hasta volverlo cielo y transparencia.
Nombras el agua, niña.
Y el agua brota, no sé dónde,
baña la tierra negra,
reverdece la flor, brilla en las hojas
y en húmedos vapores nos convierte.
No dices nada, niña.
Y nace del silencio
la vida en una ola
de música amarilla;
su dorada marea
nos alza a plenitudes,
nos vuelve a ser nosotros, extraviados.
¡Niña que me levanta y resucita!
¡Ola sin fin, sin límites, eterna!
TÌNH ANH EM
Gửi Claudio Ptolomeo*
Tôi là người: tôi chẳng thể sống lâu
mà đêm thì mênh mông vô tận.
Nhưng tôi nhìn lên trời cao:
những ngôi sao đang viết.
Tôi không biết, nhưng mà tôi hiểu được
bởi vì tôi cũng đang viết đây này
và chính ngay trong giây phút này đây
có ai đấy đem tên tôi ra gọi.
______
* Claudio Ptolomeo (khoảng 100 – 170) – nhà thiên văn học, nhà toán học người Hy Lạp sống và làm việc ở Alexandria, Ai Cập.
Hermandad
Soy hombre: duro poco
y es enorme la noche.
Pero miro hacia arriba:
las estrellas escriben.
Sin entender comprendo:
también soy escritura
y en este mismo instante
alguien me deletrea.
ANH RẢO BƯỚC TRÊN ĐƯỜNG
Anh rảo bước trên đường phố này
mà tiếng bước chân ai
lại vang lên ở đường phố nọ.
Và ở đó
anh nghe thấy mình
đang rảo bước trong đêm
nơi chỉ có
chính xác một màn sương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét