Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

Derek Walcott - Giải Nobel Văn học năm 1992


Derek Walcott (23 tháng 1 năm 1930 – 17 tháng 3 năm 2017) – nhà thơ, nhà soạn kịch Saint Lucia đoạt giải Nobel Văn học 1992 “vì những sáng tác giàu chất thơ, mang đậm tính lịch sử, là kết quả của một nền văn hóa trong sự đa dạng của nó”. Được thừa hưởng sự kết hợp nền văn hóa Caribe cùng với di sản thuộc địa Anh, Derek Walcott trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của thi ca đương đại. Walcott cũng nổi tiếng vì niềm đam mê đi du lịch đến các quốc gia trên thế giới. Ông chia tách thời gian của mình giữa New York, Boston và St Lucia, kết hợp sự ảnh hưởng của các khu vực khác nhau vào tác phẩm của mình. 

Tiểu sử:
Derek Walcott sinh ngày 23-01-1930 ở Castries, đảo Saint Lucia. Học trường cao đẳng St. Mary's College ở quê hương Saint Lucia. Tốt nghiệp Đại học West Indies ở Jamaica năm 1953, D. Walcott làm giáo viên trường phổ thông rồi phóng viên của các tờ báo “Public Opinion” và “Trinidad Guardian”. Năm 18 tuổi in 25 bài thơ bán trên đường phố Castries nhưng thực sự nổi tiếng với tập thơ Đêm xanh (1962). Với tập thơ này D. Walcott được đánh giá là nhà thơ của xứ thuộc địa đã sáng tạo ra tác phẩm ngang hàng với các nhà thơ nổi tiếng nhất ở chính quốc. Thơ của D. Walcott chủ yếu được viết bằng tiếng Anh, đôi khi mang sắc thái ngôn ngữ địa phương. Ngoài những tác phẩm thơ, ông còn nổi tiếng trong lĩnh vực sáng tác kịch, trong đó phải kể đến vở Lễ tưởng niệm và vở kịch câm (1980). Một số vở kịch của ông được viết bằng thơ. Năm 1959 ông thành lập nhà hát Trinidad và viết nhiều vở kịch cho nhà hát này.

D. Walcott đi du lịch rất nhiều nước nhưng các tác phẩm của ông mang nặng các yếu tố của xã hội Jamaica với sự du nhập văn hóa từ Châu Phi, Châu Á, Châu Âu. Trong nhiều năm ông sống ở Trinidad, dạy văn học và cách viết văn sáng tạo ở đại học Boston. D. Walcott từ chối danh hiệu công dân Anh quốc và nhập quốc tịch Saint - Lucia - một quốc đảo có đường kính 25 dặm với gần 25.000 người dân. Cho đến nay ông đã xuất bản hơn 40 tập thơ và kịch. Kinh nghiệm sống tại một đất nước thuộc địa của Anh đã có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc đời và sáng tác của ông. Nhà thơ Mỹ gốc Nga Brodsky (giải Nobel 1987) là người bạn gần gũi thân thiết của D. Walcott đã viết về quê hương xứ sở của ông như sau: "Colombo đã tìm ra nó, người Anh đã chiếm nó làm thuộc địa và Derek Walcott làm cho nó trở thành bất tử."

Năm 1981, D. Walcott được nhận giải "Giành cho các thiên tài" 250.000 USD của quỹ John và Katrin Makartuz. Năm 1992 ông nhận giải Nobel vì đã sáng tạo nên những mẫu mực thơ ca tuyệt vời của xứ Caribe.


Derek Walcott qua đời ở nhà riêng tại Cap Estate, St Lucia, ngày 17 tháng 3 năm 2017, thọ 87 tuổi. Tang lễ cử hành ngày 25 tháng 3 tại nhà thờ Basilica of the Immaculate Conception và mai táng tại Morne Fortune. 

Tác phẩm:
- 25 bài thơ (25 poems, 1948), thơ.
- Văn mộ chí cho chàng trai trẻ (Epitaph for the young, 1949), thơ.
- Đêm xanh. Thơ 1948-1960 (In a green night. Poems 1948- 1960), thơ.
- Người đắm tàu và những bài thơ khác (The castaway and other poems, 1965) thơ.
- Vịnh và những bài thơ khác (Gulf and other poems, 1969), thơ.
- Cuộc đời khác (Another life, 1973), thơ.
- Nho biển (Sea grapes, 1978), thơ.
- Vương quốc Star-Apple (The Star-Apple kingdom, 1979), thơ.
- Lễ tưởng niệm và kịch câm (Remember and pantomime, 1980), kịch.
- Người lữ hành may mắn (The fortunate traveller, 1981), thơ.
- Giữa mùa hè (Midsummer, 1984), thơ.
- Giấc mơ trên đồi khỉ và những vở kịch khác (Dream on monkey mountain and other plays, 1970), kịch.
- Thịt bò, không thịt gà (Beef, no chicken, 1985), kịch.
- Chúc thư Arkansas (The Arkansas testament, 1987), thơ.
- Omeros (Omeros, 1990), thơ. 
- Odyssey (The Odyssey, 1993), kịch.
- Đứa con phóng đãng (The prodigal, 2004), thơ.


Một số bài thơ



TÌNH YÊU SAU MỘT TÌNH YÊU

Rồi sẽ đến một ngày
Khi nhìn vào gương
Với chính mình, em cười mỉm.
Rồi sẽ đến một ngày
Con tim em hồi hộp
Khi nghe tiếng bàn chân em bước
Bên ngưỡng cửa nhà em.

Thì em hãy mời vào nhà chính bản thân mình
Thết rượu vang, bánh mì và trả lại con tim
Và hãy nhận về cho mình – một người quen xa lạ
Người ấy với em chung thủy
Yêu em suốt cả cuộc đời
Người ấy vì em mà mệt mỏi rã rời.

Em hãy cất khỏi chiếc bàn chân dung của những kẻ xa vời
Những bức thư tình, những bài thơ tuyệt vọng…
Rồi ngồi xuống bên bàn. Mở tiệc mừng long trọng
Mừng cho bản thân mình. Mừng cho cuộc đời em.


Love After Love


The time will come

when, with elation
you will greet yourself arriving
at your own door, in your own mirror
and each will smile at the other’s welcome,

and say, sit here. Eat.

You will love again the stranger who was your self.
Give wine. Give bread. Give back your heart
to itself, to the stranger who has loved you

all your life, whom you ignored

for another, who knows you by heart.
Take down the love letters from the bookshelf,

the photographs, the desperate notes,

peel your own image from the mirror.
Sit. Feast on your life.



KHÔNG CẦN GÌ NGOÀI LÒNG CHÂN THẬT

Tôi sống gần bên bờ biển
Một mình. Không vợ, không con
Và bằng rất nhiều con đường
Để đi và đến.


Ngôi nhà thấp bên biển
Cửa sổ bao giờ cũng mở toang
Về phía biển thân quen.


Không ai có thể chọn cho mình công việc
Ta chỉ là thành qủa của những việc ta làm.
Năm tháng đi qua, ta quên điều lo sợ


Nhưng còn lại khát khao được vượt qua
Tình yêu – như tảng đá
Rơi vào đáy biển bao la


Bây giờ tôi không còn đòi hỏi gì ở thơ ca
Ngoài lòng chân thật
Không sự vinh quang, không thương xót


Nếu vợ lặng im thì có thể cùng ngồi bên bờ biển với nhau
Vách đá vẫn còn giữa những con sóng bạc đầu
Sóng sẽ mang lên bờ rác rưởi của những gì hèn kém


Và tôi phải quên đi thói quen cảm nhận
Quên đi tài năng của mình
Nhưng điều này còn khó khăn hơn
Là nhận về cho mình cuộc sống.


Winding Up


I live on the water,

alone. Without wife and children,
I have circled every possibility
to come to this:

a low house by grey water,

with windows always open
to the stale sea. We do not choose such things,

but we are what we have made.

We suffer, the years pass,
we shed freight but not our need

for encumbrances. Love is a stone

that settled on the sea-bed
under grey water. Now, I require nothing

from poetry but true feeling,

no pity, no fame, no healing. Silent wife,
we can sit watching grey water,

and in a life awash

with mediocrity and trash
live rock-like.

I shall unlearn feeling,

unlearn my gift. That is greater
and harder than what passes there for life.



CHÂN DUNG TỰ HỌA

Sự cô đơn của Van Gogh
Sự cùng quẫn của Van Gogh
Sự khủng khiếp của Van Gogh.

Ông nhìn vào gương
và bắt đầu vẽ mình. 

Trong gương không ai cả
ngoài Vincent Van Gogh.
Điều này thì không đủ. 

Ông cắt đứt tai của mình.
Rồi ông nhìn vào gương:
đấy là Vincent Van Gogh
với tai quấn băng. 

Điều này giống bức chân dung
ông cố gắng ở lại đấy
nhưng trước hết ra khỏi là cần 

ông đến từ sự giảm thấp
hơn cả sự kinh hoàng
bởi một quá trình cô đơn. 

khi gương phản chiếu một điều
không vinh quang, chẳng nỗi đau
chẳng không, chẳng có

không có thể, hoặc không một lúc nào đó
trên khung vẽ chảng có ai
không còn Vincet Van Gogh

sợ hãi, cô đơn, phờ phạc
chỉ điều bịa đặt hoàn toàn. 
Và đó là bản chất. 


Self Portrait


The loneliness of Van Gogh.. 

The humbleness of Van Gogh.. 
The terror of Van Gogh.

He looks into a mirror,

and begins to pait himself.

He discovers nobody there

but, Vicent Van Gogh.
This is not enough.

He cuts off an ear.

He looks into a mirror:
there is Vincet Van Gogh
with a bandaged ear. 

It resembles his portrait,

he is attempting to remain,
fist, he must disappear,

he will arrive by reductions

beyond any more terror
by a lonely process

when the mirror will proffer

neither fame nor pain
neither or nor yea

or maybe, or one, or

no. Nobody there
not Vincent Van Gogh,

humble, frightened and lonely,

only
a fiction. An essence. 



NHO BIỂN

Cánh buồm hướng về ánh sáng
mệt mỏi vì những hòn đảo
con thuyền bơi trên biển Ca-ri-bê

đi về nhà, có lẽ đấy là Ô-đi-xê
đang bơi thuyền trên biển Aegea
đấy là người chồng, người bố

nỗi buồn, dưới chùm nho chua xương xẩu
về người tình phụ, và tên nàng Nausicaa 
còn nghe trong tiếng kêu của từng chú hải âu. 

Điều này không mang lại bình yên. Cuộc chiến đã lâu
giữa đam mê và trách nhiệm
không kết thúc bao giờ với kẻ lữ hành trên biển

và cả với kẻ lữ hành đang ở trên bờ
đang mang giày dép để chuẩn bị về nhà
từ khi Tơ-roa khóc lên trong lửa cuối. 

và kẻ khổng lồ mù ném đá
làm sóng trào, xuất hiện những vần thơ
những con sóng rã rời trên biển Ca-ri-bê.

Các nhà thơ cổ điển có thể an ủi. Nhưng chưa đủ. 

== = = =========
*Nausicaa – con gái của vua Alcinous và nữ hoàng Phaeacia (Scheria) nhân vật nữ trong trường ca Ô-đi-xê của Homer. Nausicaa yêu Ô-đi-xê và muốn trở thành vợ chàng nhưng Ô-đi-xê vì nghĩa lớn đã bỏ hòn đảo của nàng để lên đường. Sau này Nausicaa trở thành vợ của con trai Ô-đi-xê. 

Sea Grapes 

That sail which leans on light,
tired of islands,
a schooner beating up the Caribbean

for home, could be Odysseus,
home-bound on the Aegean;
that father and husband's

longing, under gnarled sour grapes, is
like the adulterer hearing Nausicaa's name
in every gull's outcry.

This brings nobody peace. The ancient war
between obsession and responsibility
will never finish and has been the same

for the sea-wanderer or the one on shore
now wriggling on his sandals to walk home,
since Troy sighed its last flame,

and the blind giant's boulder heaved the trough
from whose groundswell the great hexameters come
to the conclusions of exhausted surf.

The classics can console. But not enough. 



ODDJOB, A BULL TERRIER

Bạn chờ đợi một nỗi buồn
thì một nỗi buồn khác đến.
Nó với tiết trời không giống
chỉ đơn giản
bạn còn thiếu sự chuẩn bị thôi mà. 
Chúng ta vẫn thường lo
cho người bạn đường, cho người phụ nữ
cho người bạn của ta
cho đứa con thơ
và cho con chó
ta nhìn ra biển và suy nghĩ
chắc trời sẽ đổ mưa
và ta chuẩn bị đón cơn mưa. 
Bạn không hề nhìn ra
mối liên hệ của ánh mặt trời
đổi thay trên ngọn trúc đào màu sậm
trong khu vườn bên biển
và màu vàng từ cây cọ mà ra
Bạn cũng chẳng nhìn ra
mối liên hệ của giọt nước mưa
trên da thịt bạn
với tiếng rên của con chó trong nhà.
bạn không sợ gì tiếng sấm
sự sẵn sàng là tất cả thôi mà
những gì theo sau bàn chân bạn
muốn nói với bạn rằng
sự im lặng – đó là tất cả
nó còn sâu hơn cả sự sẵn sàng
nó sâu như đại dương
nó sâu như đất
nó sâu như tình. 

Sự lặng im
còn mạnh hơn tiếng sấm
làm cho ta sâu, làm ta mất giọng
như loài vật không biết nói về tình
ta làm sao nếu như nó trở thành
một thứ gì không thể tả
nhưng mà ta phải nói về tình
trong tiếng khóc thầm
trong nước mắt
bằng giọt mưa rơi trên mí mắt
không gọi tình yêu đúng tên sự vật
sự im lặng của người đã khuất
sự im lặng về tình ở nơi sâu thẳm nhất
đấy cũng là một sự im lặng thôi mà
và liệu chúng ta có biết mang cho
từng con thú, đứa con, người bạn, người phụ nữ
đấy cũng là một thứ tình yêu như thế
đấy là phước trời ban
sâu nhất nhờ mất mát
đấy là phước trời ban, đấy là phước trời ban. 


Oddjob, a Bull Terrier 


You prepare for one sorrow,

but another comes.
It is not like the weather,
you cannot brace yourself,
the unreadiness is all.
Your companion, the woman,
the friend next to you,
the child at your side,
and the dog,
we tremble for them,
we look seaward and muse
it will rain.
We shall get ready for rain;
you do not connect
the sunlight altering
the darkening oleanders
in the sea-garden,
the gold going out of the palms.
You do not connect this,
the fleck of the drizzle
on your flesh,
with the dog’s whimper,
the thunder doesn’t frighten,
the readiness is all;
what follows at your feet
is trying to tell you
the silence is all:
it is deeper than the readiness,
it is sea-deep,
earth-deep,
love-deep.

The silence

is stronger than thunder,
we are stricken dumb and deep
as the animals who never utter love
as we do, except
it becomes unutterable
and must be said,
in a whimper,
in tears,
in the drizzle that comes to our eyes
not uttering the loved thing’s name,
the silence of the dead,
the silence of the deepest buried love is
the one silence,
and whether we bear it for beast,
for child, for woman, or friend,
it is the one love, it is the same,
and it is blest
deepest by loss
it is blest, it is blest.

SỰ KẾT THÚC

Mọi thứ không hề bùng nổ

chúng chỉ tàn lụi, mờ dần

như ánh mặt trời mờ trên da thịt

như bọt biến nhanh vào cát

ngay cả tia chớp của ái tình

không kết thúc bằng tiếng sấm vang lên

bông hoa chết cùng với âm thanh

cũng lụi tàn y như là thân xác

từ mồ hôi của đá bọt

trùm lên mọi thứ giữa thiên nhiên

một khi chúng ta còn sống trên trần

phải chịu sự im lặng bao quanh đầu của Beethoven. 

Endings

Things do not explode,

they fail, they fade,

as sunlight fades from the flesh,

as the foam drains quick in the sand,

even love’s lightning flash

has no thunderous end,

it dies with the sound

of flowers fading like the flesh

from sweating pumice stone,

everything shapes this

till we are left

with the silence that surrounds Beethoven’s head. 



JOSEPH BRODSKY NÓI VỀ DEREK WALCOTT

Năm 1992, khi Derek Walcott đoạt giải Nobel Văn học, báo chí phương Tây hầu như đều trích dẫn lời của Brodsky: “Đó là nhà thơ hay nhất viết bằng tiếng Anh hiện tại”. Đây không chỉ là chuyện một nhà thơ Nobel khen một nhà thơ Nobel khác, không chỉ vì họ là những người bạn thân của nhau… mà những lời này mang tính dự báo và trở thành hiện thực. Joseph Brodsky viết những lời này trước đó 10 năm, sau đó in trong cuốn “Ít hơn một”(Less than one, 1986).

Derek Walcott sinh ở Saint Lucia (thuộc địa Anh), một hòn đảo nhỏ trong quần đảo Antilles ở vùng biển Caribê. Năm 1979, khi Saint Lucia tuyên bố độc lập Walcott đổi từ quốc tịch Anh - đất nước mặt trời không bao giờ lặn - thành công dân Saint Lucia. Quốc đảo bé nhỏ này, xét về mặt giải thưởng Nobel là nhất thế giới, dù tính theo đầu người hay diện tích cũng vậy. Derek Walcott là người thứ hai. Arthur Lewis (1915-1991) người đầu tiên của Saint Lucia đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1979.

Một hòn đảo có diện tích 616 km2 với hơn 150 ngàn dân (năm 2000), thu nhập quốc dân chủ yếu dựa vào nguồn xuất khẩu chuối mà có một người đoạt giải Nobel Kinh tế, mới nghe qua, ta thấy không thuyết phục. (Tất nhiên là mới nghe qua vì nếu xét về những đóng góp hay xem qua một số tác phẩm của ông như: Những nguyên tắc của kinh tế kế hoạch – Principles of economic planning, 1949; Lý thuyết tăng trưởng kinh tế – Theory of economic growth, 1955; Quy hoạch sự phát triển – Development planning, 1966; Phương thức phát triển – The Development process, 1970; Những nhân tố động lực của tăng trưởng kinh tế – Dynamic factors in economic growth, 1974 vv… thì sẽ thấy rằng Viện Hàn lâm khoa học hoàng gia Thụy Điển có lý).

Dù giải Nobel Kinh tế có thuyết phục hay không nhưng thơ ca của giải Nobel Văn học thì không một ai nghi ngờ. Đọc những lời trò chuyện của Brodsky ta sẽ càng hiểu thêm về điều này. 

- Anh có một thói quen thật là hay - lẽ ra đi kết bạn với những "người đoạt giải Nobel" thì anh kết bạn với những kẻ mà sau đó trở thành "người đoạt giải Nobel".


- Quả là tôi vui khủng khiếp. Vui vì đó chính là Derek.

- Các anh làm quen với nhau ra sao?

- Năm 76 hay 77 gì đấy. Có nhà thơ Mỹ - Robert Lowell là chỗ thân quen với tôi. Một ngày đẹp trời, hai chúng tôi ngồi tranh luận về chuyện - ai đáng gì trong thơ ca viết bằng tiếng Anh. Robert Lowell đưa cho tôi xem tập thơ của Derek Walcott, đó là bài thơ dài "Star - Apple Kingdom", nghe như là "Vương quốc Quả Táo – Ngôi Sao", một cách dịch ngớ ngẩn. Tôi có ấn tượng mạnh với tác phẩm này. Mặt khác thì tôi vẫn nghĩ: bài thơ hay thật đấy nhưng ai mà chả có thơ hay.
Sau đó một thời gian R. Lowell chết, trong đám tang anh ấy tôi gặp D. Walcott lần đầu. Và, hoá ra là chúng tôi cùng chung một nhà xuất bản - Farrar, Straus & Giroux. Nếu bây giờ thêm D. Walcott nữa thì nhà xuất bản này in sách của 20 nhà văn đoạt giải Nobel. Thế rồi tôi lấy được tác phẩm của Walcott ở nhà xuất bản và hiểu ra rằng bài thơ dài nọ, như người ta vẫn hay nói, không phải là một thành công riêng biệt, không phải là ngoại lệ. Tôi đặc biệt thích tác phẩm "Another Life", (Cuộc đời khác).
Anh biết không, một nền văn học nào cũng vậy, đặc biệt là trong một giai đoạn nhất định, có những tác phẩm nền. Ở ta (Nga- ND) đó là "Trừng phạt" của Blok, sau đó là "Trung uý Smith" của Pasternak, hoặc còn những tác phẩm khác. Đó là tác phẩm tạo nên cho thơ ca một thời tiết mới. Cũng vậy "Cuộc đời khác" - một địa phận mới như vậy. Không hẳn về địa phận được mô tả trong tác phẩm mà cái khác - là tâm lý, là địa lý. Và phương pháp mô tả cũng rất đặc thù. Sau đó, năm 78 hay 79 gì đó cả Walcott và tôi đều là thành viên ban giám khảo của tạp chí "Văn học thế giới hôm nay", một tạp chí xuất bản ở Oklahoma (Mỹ – ND) và cứ hai năm một lần tổ chức trao giải thưởng, Eugnio Montale, Elizabeth Bishop và một số người khác được giải thưởng này. Ban giám khảo gồm 13 người và mỗi người đưa ra ứng cử viên của mình. Tôi đề cử Milosz còn Walcott đề cử Naipaul, gần như là đồng hương. Tiện thể, nghe nói ở Stockholm họ cũng sát điểm nhau. Walcott tranh thủ được thêm và họ cũng là những người bạn lớn.

- Giờ thì vùng Caribe còn lâu mới được giải Nobel, Naipaul dù còn trẻ hơn Walcott hai tuổi nhưng cũng đã tròn sáu chục.


- Nhưng đấy là trong ngoặc. Còn ở Oklahoma về đích - ở đó theo nguyên tắc Olympic - là Milosz và Naipaul, cuối cùng Milosz được. Tôi hiểu là Walcott nhường ứng cử viên của mình cho ứng cử viên của tôi và hỏi anh ta tại vì sao? Walcott trả lời rằng "tôi nhường không theo nguyên nhân có thể hình dung. Vấn đề không ở chỗ là Đông Âu, là chủ nghĩa Quốc xã, là tai họa vv... Những gì hiện tại đang xảy ra ở quần đảo chúng tôi không kém gì tai họa của người Ba Lan hay người Do Thái, đặc biệt là về phương diện đạo đức. Mà những tiêu chuẩn hoàn toàn khác: tôi thích rằng sau khi đọc - dù là thơ hay văn xuôi - tôi nghe thấy một sự ngân vang. Ngân vang của hình cầu, nếu tiện. Thế mà ở Naipaul tôi không cảm thấy điều này, còn ở Milosz thì có". Từ đó, từ cái dạo Oklahoma ấy hai chúng tôi trở nên những người bạn vô cùng thân thiết.

- Anh có dùng chính cái từ này? "Druk", dù sao cũng thân thiết hơn "Friend" chứ. (Druk: bạn - tiếng Nga; Friend: bạn - tiếng Anh. ND)


- Anh biết không, đó là một con người rất nồng nhiệt. Nghĩa là từ anh ấy có một luồng xạ khí. Hoàn toàn không phải như chuyện trong nhà thờ ở Kiev mà thực tế là có một con sóng ấm áp, vâng. Khi gần anh ấy tôi luôn cảm thấy điều này. Anh ta như người vừa sưởi ngoài nắng - ta nên nhớ là anh ấy người ở đâu.

- Tôi cũng có một lần cùng hội với Walcott và tôi nhớ rất rõ một điều xung quanh anh ấy luôn có tiếng cười.


- Quả là như vậy. Anh ấy có đầu óc hài hước rất kỳ lạ. Mà sống động khủng khiếp, lúc nào cũng có một cái gì đó mới trong đầu. Nói chung là chuyện anh ấy nằm, ốm, buồn chán, uể oải thì tôi không hề nhớ. Hai mươi năm nay đó là người bạn thân nhất của tôi trong số các nhà văn tiếng Anh. Chúng tôi cùng có mặt trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, cùng ở trong nửa bán cầu này.

- Trong tất cả những bài viết về việc trao giải Nobel đều trích những lời của anh: " nhà thơ hay nhất viết bằng tiếng Anh"...


- Quả là tôi đã nói như vậy. Mà người ta buộc phải trích dẫn tôi là vì tôi viết về anh ấy rất nhiều. Chẳng phải vì điều này mà tôi tự hào... Mặc dù không, tôi tự hào mình là ai? Tôi tự hào, mà thậm chí, có thể khoe khoang điều này.

- Trong quyển "Ít hơn một" có bài về Walcott "The Sound of the Tide" (Tiếng sóng vỗ bờ), anh viết rằng Walcott - ngoài mọi trường phái. Đâu là ý nghĩa "nền" như anh thể hiện? Anh nói về những "địa phận mới" nào vậy?


- Trong bài này tôi nói phỏng theo Mandelshtam: "Đã một phần tư thế kỷ, kể từ ngày <... > tôi bơi vào thơ Nga". Walcott cũng bơi vào thơ Anh và bây giờ đã bơi đến. Anh ấy hay ở chỗ nào? Đó là phong cách cổ điển, không trái ngược với chủ nghĩa hiện đại mà hoà nhập với nó. Walcott làm thơ có vần điệu rất phong phú. Tôi nghĩ rằng, không ai gieo vần thơ bằng tiếng Anh hay hơn Walcott. Tiếp tục: thơ rất màu sắc, bởi vì màu sắc, thực tế là thông tin tâm hồn. Nếu nói về động vật thì đó là mimicry (bắt chước, mô phỏng) - điều này còn hơn là sự thích ứng, vâng? Sau tất cả những điều này là cả một câu chuyện dài - là một sự tiến hoá - còn nhiều hơn là lịch sử. Derek là nhà thơ thời Adam, có nghĩa là anh ấy đến từ thế giới nọ, nơi tất cả chưa được nghĩ ra, nơi tất cả chưa được đặt tên. Thế giới này có người ở chưa lâu lắm. Người phương Tây da trắng chưa khai hoá hết. Nơi này đa số dùng những khái niệm hãy còn chưa được nhận biết đầy đủ bằng kinh nghiệm và nhận thức.

- Có điều gì đó tương tự ta nhận ra trong hiện tượng tiểu thuyết Mỹ Latinh, nơi gần gũi với huyền thoại hơn là châu Âu hay bắc Mỹ đã được tinh luyện.


- Derek xét về chủng tộc là người da đen. Quả thực là trong máu anh ấy có trộn lẫn nhiều. Nhưng khi anh sinh ra là công dân của Liên hiệp Anh và là người da màu thì sẽ rơi vào tình trạng rất lạ lùng. Nếu môi trường hoạt động của anh là văn hoá thì sự lựa chọn sẽ rất hạn chế. Hoặc là đắm chìm trong hoài niệm về nguồn gốc không còn tồn tại vì chẳng còn chút truyền thống gì ngoài những lời truyền miệng. Hoặc là đi tìm nơi trú ẩn trong văn hoá của những người chủ. Trường hợp thứ nhất - dễ hơn, vì rằng ở đó chẳng có gì ngoài tình cảm.

- Và sau đó thì trở thành người số một. Tôi hồi trẻ đã tiếc rằng sao mình không là người của một dân tộc thiểu số phương bắc nào đấy: mới 30 tuổi đã có một tuyển tập tác phẩm.


- Trong mọi trường hợp, sự ủng hộ anh sẽ tìm ra cho mình và không cần suy nghĩ nhiều mà quan trọng là cần cảm nhận.

- Trong trường hợp thứ hai mà anh nói trên sự cạnh tranh, tất nhiên, hoàn toàn khác.


- Không đơn giản như vậy. Anh đang đi vào lịch sử văn hoá mà cần phải nắm vững và phải đấu tranh với nó. Thế giới này rộng lớn, có nhiều thứ đã được hình thành. Điều này có thể sẽ giẫm đạp lên. Đấy là chưa nói chuyện những đồng bào của anh vẫn thường xuyên trách móc rằng anh đã bán mình cho những người Bôn-sê-vích.

- Trong trường hợp này – cho những người Da trắng.


- Vâng, cho những người Da trắng. Cho nền văn hoá lớn. Nhưng tài năng mạnh mẽ như Walcott, cũng như Naipaul, họ không đến từ đâu cả và họ nắm vững không chỉ văn hóa Anh. Họ mong muốn tìm ra cho mình một chỗ đứng và một trật tự thế giới thay vì có được một chốn nương náu ở văn hóa Anh, xuyên qua nó và đi ra từ phía khác, trở thành những người xa lạ hơn trước khi vào.

- Họ không đo cao trình trong truyền thống mạnh mẽ mà chỉ tôi luyện và tăng cường sự đặc trưng của mình. Nghĩa là, trước đó sự đặc trưng này là thiên bẩm từ nguồn gốc xuất thân – sự ảnh hưởng của vùng Caribê, châu Phi, Ấn Độ – còn sau đó thì trở thành nhân cách thực sự. Nhưng nếu như Walcott và Naipaul viết bằng tiếng Anh thì trước hết có lợi cho người Da trắng chứ.


- Những người này đã khác. Và thế giới này đã khác. Nhờ có những người như Walcott, như Naipaul. Mà Derek nhận được nền giáo dục cổ điển Anh. Nền giáo dục cổ điển thuộc địa Anh.

- Tiện thể, cái đảo Saint Lucia này là một nơi rất kỳ lạ. Thu nhập tính theo đầu người chỉ bằng 1/10 của dân Mỹ mà người biết chữ là 90%, đấy là một tỉ lệ cao của thế giới.


- Derek học ở Đại học Đông Ấn, sau đó học tiếp ở Anh, nhiều con đường khác nhau. Nhưng lĩnh vực của anh ấy là thơ ca.

- Một công việc rất riêng tư. Nhưng mà Walcott còn là một nhà soạn kịch.


- Anh ấy viết kịch thơ bởi vì: a) say mê sân khấu và b) là để tạo việc làm cho nhiều người đồng hương tài năng của mình. Trong kịch anh ấy nhiều âm nhạc, rất sôi nổi còn say mê thì như kịch của Shakespeare. 

- Tôi cứ ngỡ rằng Derek Walcott là người đại diện toàn quyền của nhóm Thất tinh thời nay. Trước hết là người phù hợp nhất với những dòng của anh viết: “Nếu phải sinh ra trong đế chế thì tốt nhất là được sống ở bên bờ biển nơi tỉnh lẻ xa xôi”. Này là Walcott, Naipaul – từ những hòn đảo ở vùng biển Caribê. Một năm trước đó giải Nobel Văn học được trao cho Nadine Gordimer từ Nam Phi. Cũng ở Nam Phi có Coetzee, người mà anh nhiều lần gọi là một trong những nhà văn viết bằng tiếng Anh hay nhất. Có Salman Rushdie. Còn ở Stockholm nghe nói đang xét trao giải cho Seamus Heaney. Tất cả đều là văn xuôi và thơ ca bằng tiếng Anh và tất cả đều không phải người Anh, không phải người Mỹ, tất cả đều người ngoài. Điều gì xảy ra vậy?


- Xảy ra cái điều mà Yeats đã từng nói: “Trung tâm đã không còn giữ nổi”. Và quả là trung tâm đã không còn giữ nổi.

- Đế chế tốt đẹp lên bởi những đống hoang tàn?


- Không chỉ những đống hoang tàn mà còn là những vùng biên cương xa xăm. Mà vùng biên cương xa xăm hay một điều, có thể, là nơi kết thúc Đế chế, nhưng là nơi bắt đầu của thế giới còn lại. Và ở nơi biên cương xa xăm của Đế chế, trên một hòn đảo nhỏ trong biển Caribê có một người bắt đầu đọc Shakespeare và những người còn lại. Người ấy không nhìn thấy những người lính lê dương nhưng nhìn thấy sóng biển và những cây cọ, những cây dừa bên bờ biển như những cái mũ sắt của những người lính đổ bộ đã chết năm nào.

- Walcott viết rằng: “Biển là lịch sử của chúng tôi”. Và ở một chỗ khác: “Dân tộc tôi sinh ra trên biển, không tên gọi, chẳng có những chân trời". Còn anh, ở vùng tây-bắc của một Đế chế khác cũng có biển, cũng có ý nghĩa đầu tiên, nếu xét theo những câu thơ này:

Tôi sinh ra và lớn lên trong những đầm lầy Baltic
bên những con sóng bạc đầu ùa lên bờ cát từng đôi
giọng nói héo hon và tất cả những vần điệu từ đây
cuộn vào nhau, tựa như mái tóc xoăn đẫm ướt…


Nếu vùng biên cương xa xăm của Đế chế mà trung tâm “đã không còn giữ nổi”, Đế chế đang tan rã như Đế của ta, hay đã tan rã như Đế chế Anh, nếu tất cả đều tốt đẹp đến vậy thì liệu có nên chờ đợi điều bất ngờ từ những vùng biên cương xa xăm của nước Nga?


- Nên hy vọng một điều gì tương tự sẽ đến. Mặc dù những vùng biên cương xa xăm của ta không tách biệt với nhau về địa lý, mà là một lục địa toàn vẹn. Bởi thế không có cảm giác tách biệt hẳn với trung tâm. Mà theo tôi, cảm giác này này rất quan trọng. Những người nói tiếng Anh cám ơn địa lý vì có những hòn đảo này. Tuy nhiên, trường hợp với nước Nga để có những điều tương tự không ngoại trừ điều này.

- Tôi nghĩ rằng sự trẻ trung của nền văn hóa mà con người ở vùng biên cương của Đế chế mang trong mình cùng với truyền thống gắn liền với sự can đảm, nếu không nói là táo bạo. Ví dụ như Walcott cả gan viết cả thiên sử thi: 325 trang “Omeros” – cải biên “Iliat” và “Odyssey” theo kiểu Caribê. Sử thi trong thời đại của ta không còn phù hợp chăng?


- Không biết được. Đối với nhà văn – không hợp. Đối với bạn đọc – cũng không hợp.

- Tại sao sử thi hiện đại không tồn tại, hoặc hầu như không có?


- Là bởi vì ruột của ai cũng nhỏ cả. Là bởi vì ta vẫn thích những hình thức ngắn gọn hơn: tất cả đều tự nhiên thôi. Thời gian có ít, cả nhà văn lẫn bạn đọc. Và tất nhiên trong sử thi có chỗ lếu láo. Nhưng mà “Omeros” là tác phẩm thơ hay, đôi chỗ rất lạ kỳ. Nhưng “Cuộc đời khác” mới đúng là sử thi của Walcott.

- Và một câu hỏi truyền thống: Walcott có biết nhiều về văn học Nga không?


- Anh ấy biết nhiều qua những bản dịch sang tiếng Anh tác phẩm của Pasternak và Mandelstam và chịu sự ảnh hưởng của họ. Theo tôi biết được thì Walcott ở giữa hai nhà thơ kia. Walcott là nhà thơ dùng thủ pháp, chi tiết và điều này gần với Pasternak. Còn ở mặt khác – giọng teno tuyệt vọng của Mandelstam… Tôi nhớ lần ở Oklahoma, hai chúng tôi ngồi trò chuyện. Mỗi thành viên ban giám khảo mỗi ngày được phát một chai Whisky “Ballantyne” mà Derek khi đó đã bỏ rượu nên anh ấy trao cho tôi, còn tôi làm vui anh ấy bằng cách dịch theo trí nhớ thơ của Mandelstam. Tôi nhớ câu thơ: “Và trên sông Nê-va màu vàng chanh, sau tiếng xạc xào của tờ một trăm đồng rúp/ Cô gái Digan trước mặt tôi đã không còn nhảy múa nữa bao giờ” đã gây cho Derek một ấn tượng rất mạnh. Anh ấy đánh mất mình vì khoái chí. Sau đó làm thơ về sự ân huệ của tôi sử dụng xảo thuật gây ấn tượng của những dòng thơ này. Anh ấy còn giúp tôi dịch thơ của mình.

- Tôi nghĩ rằng Walcott trong thơ của Mandelstam và trong thơ anh mang một nét cổ điển. Không ngẫu nhiên mà anh ấy thích so sánh quần đảo của mình với quần đảo của người Hy Lạp.


- Quả là đúng như vậy, khuynh hướng này ở anh ấy rất mạnh mẽ, suy nghĩ về quần đảo của mình ở Đông Ấn như về Hy Lạp. Derek lật từng trang sách như ngọn sóng - giật lùi.
<1992> 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét