Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2016

Giosuè Carducci - Giải Nobel Văn học năm 1906


Giosue Carducci (27 tháng 7 năm 1835 – 16 tháng 2 năm 1907) – nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình người Ý. Ông có sự ảnh hưởng lớn và được coi là thi hào dân tộc của nước Ý hiện đại. Năm 1906, ông trở thành người Ý đầu tiên đoạt giải Nobel văn học “không chỉ là để ghi nhận kiến thức sâu sắc và trí tuệ phê bình, mà trước hêt là để ghi nhận năng lượng của sự sáng tạo, sự mới mẻ của phong cách và một sức mạnh trữ tình đã tạo nên những tuyệt phẩm thơ ca của ông”. 

Tiểu sử:

Giosue Carducci sinh ở vùng tây - bắc tỉnh Toscana, Italia. Là con trai một bác sĩ, thành viên của một tổ chức bí mật đấu tranh thành lập chính thể lập hiến nên gia đình thường xuyên phải chuyển nơi ở. Từ năm 1848, gia đình chuyển đến Firenze, Carducci mới được đến trường. Cậu bé say mê văn học cổ điển, đọc nhiều, bắt đầu viết về đề tài lịch sử, làm thơ trào phúng, dịch khúc thứ 9 trong trường ca Iliad của Homer. Năm 1853 Carducci được học bổng vào trường Đại học Pisa, học triết và văn học, kết bạn với những người đồng chí hướng thuộc nhóm Văn Đàn.

Sau khi tốt nghiệp Đại học Pisa, ông làm giảng viên tại trường trung học thành phố Man-Miniato-al-Tedesco. Năm 1857 ông in tập thơ đầu tiên Thi vận, gồm những bài sonetto và ballata mang một tình cảm ái quốc sâu nặng, thiếu vắng hẳn những tình cảm ủy mị của chủ nghĩa lãng mạn. Carducci là một trong những người đứng đầu đã tập hợp quanh mình nhóm tác giả của tạp chí Phụ bản do Pietro Tuar ấn hành, coi nhiệm vụ của mình là bảo vệ nền thơ ca Italia thoát khỏi cái mà họ gọi là “ảnh hưởng nguy hại của chủ nghĩa lãng mạn”. Những năm 1857-1858 Carducci gặp nhiều khó khăn: tài chính eo hẹp, anh trai tự tử, cha mất sau đó một năm. Sang năm 1859, ông lấy vợ, năm sau nhận được chức giảng viên khoa tiếng Hy Lạp tại trường Đại học Pistoja. Còn sau vài tháng, ông trở thành giáo sư Văn học Italia tại Đại học Bologna, giữ chức trưởng khoa đến khi về hưu vào năm 1904.


Di sản thơ của Carducci không nhiều, trong bộ tuyển 30 tập chỉ có 4 tập thơ, phần còn lại là khảo luận, chuyên luận khoa học và các bài tranh luận. Các tác phẩm thơ tiêu biểu của ông là Nhẹ nhàng và nghiêm trọng (1861-1868), Thơ mới (1861-1887), Những đoản thi man dại (ba tập, 1878-1889)... Những năm cuối đời Carducci, vốn nổi tiếng là một nhà hùng biện, được coi là thi hào dân tộc Italia, trở thành thượng nghị sĩ, ủng hộ chính sách bành trướng của Italia ở châu Phi.

Ngoài sáng tác thơ, Carducci còn nổi tiếng là một nhà phê bình và nhà ngôn ngữ học. Ông là tác giả của nhiều bài viết quan trọng về Dante, Petrarca, Boccaccio… Carducci cũng là một dịch giả xuất sắc với những bản dịch thơ Goethe và Heine sang tiếng Ý.

Giosue Carducci mất ngày 16 tháng 2 năm 1907 tại Bologna, một năm sau khi nhận giải Nobel Văn học. 


Tác phẩm:

* Thi vận (Rime, 1857), thơ
* Nhẹ nhàng và nghiêm trọng (Levia gravia, 1861-1868), thơ
* Thánh ca cho quỉ Satan (Inno a Satana, 1865), thơ
* Thơ Iambơ và epodes (Giambi ed epodi, 1882), thơ
* Thơ mới (Rime nuove, 1861-1887), thơ
* Những đoản thi man dại (Delle di barbare, 1878-1882, 1889), thơ
* Nghiên cứu về những thế kỉ đầu tiên của quá trình phát triển văn học Italia (Studii su la letteratura italianna dei primi secoli), khảo luận
* Về sự phát triển nền văn học dân tộc (Dello svolgimento della letteratura nazionale, 1868-1871), phê bình
* Nghiên cứu văn học (Studi letterati, 1874), khảo luận
* Phác thảo phê bình và tranh luận văn học (Bozetti critici e discorsi letterari, 1876), phê bình
* Thi vận và tiết điệu (Rime e ritmi, 1901), thơ


Một số bài thơ:

MÙA ĐÔNG BUỒN CHÁN


Có thể một thưở đã từng
mặt trời chiếu trên trái đất
hoa tím, hoa hồng khoe sắc
nụ cười, say đắm, nồng nàn?

Có thể một thưở đã từng

thời tuổi thanh xuân da diết
từng có vinh quang, sắc đẹp
tình yêu, đức hạnh, lòng tin?

Có thể một thưở đã từng

thời Homer, Valmiki* sống
nhưng biết làm sao so sánh
mặt trời ngày đó đã tàn. 

Còn tôi giấu trong màn sương

mùa đông chỉ còn gió rét
thế giới tro tàn đã chết
có thể ngày ấy đã từng. 
_____________
*Homer (sống vào khoảng thế kỷ VIII tr. CN) – nhà thơ Hy Lạp cổ đại, tác giả của Iliat và Odyssey. Valmiki (sống vào khoảng thế ký V – IV tr. CN) – nhà thơ Ấn Độ cổ đại, tác giả của thiên sử thi Ramayana. 


Tedio Invernale


Ma ci fu dunque un giorno

su questa, terra il sole?
Ci fųr rose e viole,
luce, sorriso, ardor?

Ma ci fu dunque un giorno

la dolce giovinezza
la gloria e la bellezza
fede, virtude, amor?

Ciō forse avvenne ai tempi

d'Omero e di Valmichi,
ma quei son tempi antichi,
il sole or non č pių.

E questa ov'io m'avvolgo

nebbia di verno immondo
č cenere d'un mondo
che forse un giorno fu.



ĐÊM ĐÔNG


Về phía trước, tuyết như là ánh sáng
Lấp lánh trên đồi và trải dài ra
Xào xạc dưới chân, hơi thở của ta
Như hơi nước chạy vào trong gió thoảng. 

Tất cả lặng im. Giữa trời thanh vắng

Mây lặng ngừng, trăng như kẻ tuần tra
Bơi giữa một màu trắng đục nhạt nhòa
Dùng bóng cây thông làm nơi trú ẩn. 

Không đường nét, kinh hoàng như ý tưởng

Cái chết ước mong vây bủa quanh ta
Rồi tan ra, lơ lửng với sương mù

Và nảy sinh ý nghĩ về những sóng

Hướng trời kêu: ôi băng giá, đêm đông
Giờ trong mồ tìm đâu ra ngày tháng?

Notte d’inverno 


Innanzi, innanzi. Per le foscheggianti

Coste la neve ugual luce e si stende,
E cede e stride sotto il piè: d'avanti
Vapora il sospir mio che l'aer fende. 

Ogni altro tace. Corre tra le stanti

Nubi la luna su 'l gran bianco e orrende
L'ombre disegna di quel pin che tende
Cruccioso al suolo informe i rami infranti, 

Come pensier di morte desiosi.

Cingimi, o bruma, e gela de l'interno
Senso i frangenti che tempestan forti; 

Ed emerge il pensier su quei marosi

Naufrago, ed al ciel grida: O notte, o inverno,
Che fanno giù ne le lor tombe i morti?


GỬI BỨC CHÂN DUNG CỦA TÔI


Xưa tôi là thế, khi mà con đường thẳng

Tuổi thanh xuân tôi hướng đến mặt trời
Như vào vách đá, những bài hát của tôi
Nghiêm khắc và như mùa xuân sôi động.
Bây giờ tất cả chỉ còn im lặng
Sương mờ phủ lên những cánh đồng hoa
Mặt đất bao trùm đêm tối nhạt nhòa
Trước mặt tôi không còn tia hy vọng
Cũng chẳng còn những mơ ước cao xa
Về vinh quang của nước Ý chúng ta
Về sự hồi sinh của những môn nghệ thuật
Giờ tất cả chỉ còn trong ký ức
Than ôi! Qua rồi những tháng ngày xanh
Chỉ cảm giác đắng cay vẫn ngự trong lòng.



TUYẾT RƠI


Từ bầu trời âm u những bông tuyết rơi chầm chậm
Âm thanh của cuộc sống từ thành phố chẳng còn nghe
Cũng chẳng còn vang lên những khúc hát tình ca
Hay tiếng của đoàn tàu, tiếng của người buôn bán. 

Từ trên tháp cao vang lên tiếng chuông chầm chậm

Nghe như tiếng thở dài của một thế giới mờ xa
Chim vỗ cánh vào cửa sổ - có phải hồn bạn bè
Đang tìm tôi, gọi tôi khi họ lang thang thơ thẩn
Bạn bè ơi (hãy lặng im, con tim ngang bướng)
Tôi sẽ về với bóng đêm, trong yên lặng nghỉ ngơi. 

 Nevicata


Lenta fiocca la neve pe ‘l cielo cinereo: gridi,

suoni di vita più non salgono da la città,
non d’erbaiola il grido o corrente rumore di carro,
non d’amor la canzon ilare e di gioventù.

Da la torre di piazza roche per l’aere le ore

gemon, come sospir d’un mondo lungi dal dì.
Picchiano uccelli raminghi a’ vetri appannati: gli amici
spiriti reduci son, guardano e chiamano a me.
In breve, o cari, in breve – tu càlmati, indomito cuore –
giù al silenzio verrò, ne l’ombra riposerò.


Ở TRIỀN SÔNG ARNO


Không bao giờ còn thấy những ngọn đồi
Ở Tuscana, nơi tiếng hát của tôi
Được sinh ra dưới mặt trời sáng tỏ
Giữa những rừng nguyệt quế, tiếng nước reo.  

Không còn tuôn những giọt lệ bất ngờ

Tất cả ký ức giờ đây im lặng
Kể từ khi giữa tiếng cười đồng vắng
Anh trai tôi đã yên nghỉ trong mồ.

Ôi hy vọng nào giúp được cho ta!

Với sức mạnh tuổi xuân không lặp lại
Ta mơ màng không tin giờ phút cuối.

Tôi đánh mất thời gian cho trí tuệ

Mà nó nằm trong đất, tuổi hai mươi
Được phủ đầy cỏ hoa nơi mộ chí. 

Per Val d'Arno


Né vi riveggo mai, toscani colli,

Colli toscani ove il mio canto nacque
Sotto i limpidi soli e tra le molli
4Ombre de’ lauri a’ mormorii de l’acque,

Che dal lago del cor non mi rampolli

Il pianto. Ogni memoria altra si tacque
Da quando in te, che piú ridi e t’estolli,
8Colle funesto, il fratel mio si giacque.

Oh che dolce sperar già ne sostenne!

Come da quella età che non rinverde
11Volammo a l’avvenir con franche penne!

Tra ignavi studi il tempo or mi si perde

Nel dispetto e l’oblio, ma lui ventenne
14Copre la negra terra e l’erba verde.





TRÂU

Ta yêu mi, trâu ơi, yêu mi lắm
Sức mạnh, bình an cho trái tim ta
Mi như bức tượng đứng nhìn đồng ruộng
Tự do và tít tắp đến mờ xa.  

Mi nghiêng vai vào ách để kéo cày

Việc nặng của người mi làm cho nhẹ
Người ta thúc giục, quất roi nhưng chỉ
Thấy vẻ yên bình trong mắt mà thôi. 

Từ lỗ mũi rộng, ẩm ướt và đen

Hồn mi thở, như bài ca vui vẻ
Tiếng ọ của mi thanh thản trên đồng

Trong đôi mắt lớn – màu biển ngời lên

Sự im lặng màu xanh và dịu nhẹ 
Hiện trong tấm gương thánh thiện của mình.

Il bove


T'amo, o pio bove; e mite un sentimento

Di vigore e di pace al cor m'infondi,
O che solenne come un monumento
Tu guardi i campi liberi e fecondi, 

0 che al giogo inchinandoti contento 

L'agil opra de l'uom grave secondi:
Ei t'esorta e ti punge, e tu co 'l lento
Giro de' pazienti occhi rispondi. 

Da la larga narice umida e nera 

Fuma il tuo spirto, e come un inno lieto
Il mugghio nel sereno aer si perde; 

E del grave occhio glauco entro l'austera

Dolcezza si rispecchia ampio e quieto
Il divino del pian silenzio verde.



Ở VÙNG TERME DI CARACALLA 

Những đám mây đen bay qua Aventino, Celio
ngọn gió buồn từ đồng bằng mang hơi ẩm
đằng xa – những ngọn đồi Albani
đứng trong tuyết trắng.

Dưới màu tro của tấm khăn voan

dâng lên màu xanh, cô gái người Anh tìm trong sách
những cuộc tranh luận của thời xa lắc
và bầu trời với những viên đá thành Rôm.

Bầy quạ đen không ngừng tiếng kêu vang

quạ bay giữa trời như có vẻ
tiếng gọi của ai nghe rất dữ
và to lớn vô cùng.

Người khổng lồ cổ đại mơ tưởng, than phiền

bầy yêu tinh – với trời xanh tranh luận?
Từ Laterano nghiêm trang đổ xuống
một hồi chuông.

Kẻ lười biếng quấn vào chiếc áo choàng

miệng huýt gió, không nhìn ai hết
bây giờ ta gọi ngươi, bệnh sốt rét
ở đây, ngươi là thiên thần.

Nếu động đến ngươi giọt nước mắt tuyệt trần

và lời van xin của nhiều bà mẹ
chùi nước mắt cho bầy con trẻ
cúi mình xuống nhọc nhằn

để chạm đến Palazio vinh quang

cái bàn thờ xưa (ngọn đồi evandrio
Tebro trong buổi chiều vật vờ
khắp Campidoglio 

hoặc Aventino, rồi trở về

ngắm quảng trường dưới mặt trời đầy nắng
và hát trong im lặng
bài ca Saturino). 

Bệnh sốt rét, ngươi hãy xua đi

những kẻ mới đến với những gì nhỏ nhắn
điều khủng khiếp này, xin hãy kính trọng
thiên thần đang ngủ của thành Rôm

ở Palatino – kiêu hãnh ngẩng đầu lên

ở Aventino, Celio buông tay xuống
từ Capena đến Appia con đường lớn
giũ sạch bờ vai.
______________
* Terme di Caracalla – là một khu phức hợp giải trí công cộng gồm có nhà tắm nóng lạnh, bể bơi, phòng tập luyện, quán café… với diện tích hàng chục hécta được xây dựng ở La Mã cổ đại trong các năm 212 – 217 và mang tên của Hoàng đế Caracalla. Ngày nay, đống tro tàn của khu vực này là một điểm du lịch nổi tiếng thu hút khách từ khắp nơi trên thế giới. Nhà thơ đưa ra những suy ngẫm của mình khi đứng trước thắng cảnh, điểm du lịch nổi tiếng này. 


Dinanzi Alle Terme di Caracalla


Corron tra ’l Celio fósche e l’Aventino

le nubi: il vento dal pian tristo move
umido: in fondo stanno i monti albani
bianchi di neve.4

A le cineree trecce alzato il velo

verde, nel libro una britanna cerca
queste minacce di romane mura
al cielo e al tempo.8

Continui, densi, neri, crocidanti

versansi i corvi come fluttuando
contro i due muri ch’a piú ardua sfida
levansi enormi.12

“Vecchi giganti, - par che insista irato

l’augure stormo - a che tentate il cielo?„
Grave per l’aure vien da Laterano
suon di campane.16

Ed un ciociaro, nel mantello avvolto,

grave fischiando tra la folta barba,
passa e non guarda. Febbre, io qui t’invoco,
nume presente.20

Se ti fûr cari i grandi occhi piangenti

e de le madri le protese braccia
te deprecanti, o dea, da ’l reclinato
capo de i figli:24

se ti fu cara su ’l Palazio eccelso

l’ara vetusta (ancor lambiva il Tebro
l’evandrio colle, e veleggiando a sera
tra ’l Campidoglio28

e l’Aventino il reduce quirite

guardava in alto la città quadrata
dal sole arrisa, e mormorava un lento
saturnio carme);32

Febbre, m’ascolta. Gli uomini novelli

quinci respingi e lor picciole cose:
religïoso è questo orror: la dea
Roma qui dorme.136

Poggiata il capo al Palatino augusto,

tra ’l Celio aperte e l’Aventin le braccia,
per la Capena i forti ómeri stende
40a l’Appia via.




TIẾNG KHÓC XƯA


Cây lựu lại cúi mình
trong  khu vườn im lặng
chiếc lá lại vui mừng
đón nắng hè nóng bỏng.

Như bàn tay con trẻ

tiếng khóc đã từng giăng
lên màu chiếc lá xanh
lên lá bừng như lửa. 

Bông hoa của đời ta

đang khô héo dần dà 
màu sắc hoa dần nhạt
không tươi lại đâu mà

nghệ thuật trong đất lạnh

nghệ thuật trong đất đen
không cho niềm vui sướng
cũng chẳng đánh thức tình. 

Pianto antico


L’albero a cui tendevi

la pargoletta mano,
il verde melograno
da’ bei vermigli fior,

nel muto orto solingo

tutto rinverdì  or ora,
e giugno lo ristora
di luce e di calor. 

Tu fior de la mia pianta

percossa e inaridita,
tu de l’inutil vita
estremo unico fior,

sei ne la terra fredda,

sei ne la terra negra;
né il sol più ti rallegra
 né ti risveglia amor



RUIT HORA*


Ôi, sự cô đơn ngọt ngào trong rừng này 

và khát khao xa tiếng ồn thành phố
cùng với ta hai bạn này của Chúa
rượu và tình yêu, Lidia ơi.

Tiếng cười của chàng như tiếng pha lê

ôi Lieo, chàng trẻ trung muôn thuở
và đôi mắt Lidia lấp lánh quá
ôi tình yêu ơi người đã lên ngôi.

Những tia nắng phía dưới gác sân nhà

vẻ hào quang ngời lên màu đỏ thắm
trong ly rượu này dường như rung động
và trên sóng tóc em nữa, Lidia. 

Trên mái tóc của em, Lidia

một bông hồng tái nhợt đang dần chết
còn trong tim một nỗi buồn bất chợt
ngọn lửa tình yêu giờ cũng nhạt nhòa. 

Tại vì sao mà biển đang nức nở

tiếng thì thầm bí ẩn ở đằng xa?
và bài ca gì vậy, Lidia
bài ca mà thông biển đang hát đó?

Và những ngọn đồi ở chốn xa xa

muốn ôm mặt trời hoàng hôn màu đỏ
bóng lớn lên, lòng anh đây cứ ngỡ
chúng đang chờ nụ hôn cuối, Lidia. 

Dù bóng tối giờ này đà vây kín

Lieo này đang chờ đợi nụ hôn
và anh khát khao ánh mắt của em
nếu con ngựa mặt trời kia đổ xuống. 

Giờ khắc trôi. Đôi môi hồng ánh lên

bông hoa của hai tâm hồn đang nở
những cánh hoa khát khao đang thầm thĩ
em hãy giang vòng tay rộng với anh. 
……………
(*Giờ phá hủy –tiếng Latinh) 
(Lieo – Nghĩa là rượu)  

Ruit Hora


O desïata verde solitudine

lungi al rumor de gli uomini!
qui due con noi divini amici vengono,
vino ed amor, o Lidia.

Deh, come ride nel cristallo nitido

Lieo, l'eterno giovine!
come ne gli occhi tuoi, fulgida Lidia,
trïonfa amore e sbendasi!

Il sol traguarda basso ne la pergola,

e si rinfrange roseo
nel mio bicchiere: aureo scintilla e tremola
fra le tue chiome, o Lidia.

Fra le tue nere chiome, o bianca Lidia,

langue una rosa pallida;
e una dolce a me in cuor tristezza súbita
tempra d'amor gl'incendii.

Dimmi: perché sotto il fiammante vespero

misterïosi gemiti
manda il mare là giú? quai canti, o Lidia,
tra lor quei pini cantano?

Vedi con che desio quei colli tendono

le braccia al sole occiduo:
cresce l'ombra e li fascia: ei par che chiedano
il bacio ultimo, o Lidia.

Io chiedo i baci tuoi, se l'ombra avvolgemi,

Lieo, dator di gioia:
io chiedo gli occhi tuoi, fulgida Lidia,
se Iperïon precipita.

E precipita l'ora. O bocca rosea,

schiuditi: o fior de l'anima,
o fior del desiderio, apri i tuoi calici:
o care braccia, apritevi.


Xem thêm:


HUY CHƯƠNG NOBEL

Giải thưởng Nobel là một trong những giải thưởng Quốc tế uy tín nhất. Những người đoạt giải được công bố vào tuần thứ hai của tháng mười hàng năm. 

Alfred Nobel là nhà hóa học, kỹ sư và nhà phát minh. Phát minh nổi tiếng nhất của ông là thuốc nổ. Năm 1888, thay vì cáo phó về người anh là Ludvig Emmanuel Nobel qua đời, một tờ báo Pháp đã đăng bức ảnh của Alfred Bernhard Nobel với cáo phó tên là: “Người buôn bán tử thần đã qua đời”. Alfred Nobel tự hỏi mình sẽ giữ lại kỷ niệm nào cho đời. Sau đó, ông quyết định thay đổi di chúc đã viết trước đây. Gần một năm trước khi qua đời vào ngày 27 tháng 11 năm 1895, Alfred Nobel đã quyết định bán tất cả tài sản của mình và gửi vào một ngân hàng. Thu nhập từ vốn lẫn lãi của số tiền này phải thuộc về một Quỹ và sẽ phân phối chúng hàng năm dưới dạng tiền thưởng cho những người trong năm trước đã mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.

Theo Điều lệ của Quỹ Nobel ngày 29 tháng 6 năm 1900: “Các tổ chức trao giải thưởng Nobel phải cung cấp cho mỗi người đoạt giải thưởng tiền mặt, bằng chứng nhận và huy chương vàng có hình Alfred Nobel với dòng chữ tương ứng”.

Huy chương các giải thưởng về Vật lý, Hóa học, Văn học, Sinh lý học và Y khoa do nhà điêu khắc, thợ khắc người Thụy Điển Erik Lindberg thiết kế. Huy chương của giải thưởng hòa bình - do nhà điêu khắc người Na Uy, ông Gustav Vigeland thiết kế. Huy chương của giải Kinh tế do Gunvor Svensson-Lundqvist thiết kế.

Ở mặt trước của các huy chương về Vật lý, Hóa học, Văn học, Sinh lý học và Y khoa là chân dung của Alfred Nobel và năm sinh, năm mất của ông bằng chữ số La Mã - MDCCCXXXIII - MDCCCXCVI. Chân dung của Alfred Nobel ở các huy chương của giải Hòa bình và giải Kinh tế có chút khác biệt với nhau. Dòng chữ chính ở mặt sau của các huy chương giải Vật lý, Hóa học, Văn học, Sinh lý học và Y khoa có nội dung: “Inventas vitam juvat excoluisse per artes” (Phát minh làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn thông qua nghệ thuật khám phá), và hình ảnh thay đổi theo các biểu tượng của các tổ chức tương ứng trao giải thưởng Nobel. Ở mặt sau của huy chương giải Hòa bình có dòng chữ: “Pro pace et fraternitate gentium” (Vì hòa bình và tình huynh đệ). Ở mặt sau của huy chương giải Kinh tế không có trích dẫn nào cả. 


Các huy chương Nobel có thiết kế giống nhau kể từ năm 1902. Vậy thì tại sao không từ năm 1901, khi các giải thưởng đầu tiên được trao? Vào đầu năm 1901, nhà điêu khắc, thợ khắc tài năng người Thụy Điển Erik Lindberg được giao nhiệm vụ thiết kế các huy chương Nobel của Thụy Điển. Việc thiết kế huy chương của người Na Uy cho giải thưởng Hòa bình được giao cho nhà điêu khắc người Na Uy, ông Gustav Vigeland. Nhưng thiết kế mặt trái của huy chương Nobel Thụy Điển đã không được hoàn thành trước lễ trao giải đầu tiên vào năm 1901. Những người đoạt các giải Nobel năm 1901 đều nhận được một huy chương tạm thời - trên đó có khắc chân dung của Alfred Nobel - như một món quà lưu niệm cho đến khi huy chương thật hoàn thành. Huy chương thật đầu tiên được hoàn thành vào tháng 9 năm 1902. 

Trong những năm 1901-1902, Erik Lindbergh sống ở Paris. Ông chịu sự ảnh hưởng của các họa sĩ khắc Pháp thời kỳ đó. Bức chân dung của Nobel trên mặt trái của các huy chương Thụy Điển đã được hoàn thành đúng hạn vào tháng 10 năm 1901. Lý do của sự chậm trễ là các biểu tượng ở mặt sau của các huy chương cần được tất cả các tổ chức trao giải thưởng Nobel chấp thuận, nhưng một số mâu thuẫn nảy sinh ở đây. Sau những cuộc thảo luận kéo dài, Erik Lindbergh quyết định quay trở lại Stockholm vào tháng 11 năm 1901 để trình bày ý tưởng của mình. Các đề xuất của ông sau đó đã được chấp nhận và cuối cùng ông đã làm khuôn thạch cao để đúc các huy chương nhưng đã không thể hoàn thành đúng thời hạn. 


Trên tất cả các huy chương Nobel Thụy Điển, tên của những người đoạt giải được khắc rõ ràng ở mặt sau, còn tên của những người đoạt giải giải Hòa bình và Kinh tế được khắc trên cạnh của huy chương và không mấy rõ ràng. Điều này tạo ra một số vấn đề nhất định cho những người đoạt giải thưởng Nobel Kinh tế năm 1975 – đó là nhà kinh tế người Liên Xô Leonid Kantorovich và nhà kinh tế người Mỹ Tjalling Koopmans. Huy chương của họ bị trao nhầm ở Stockholm, sau lễ trao giải Nobel, những người đoạt giải trở về quê hương của họ với những huy chương sai tên. Vì điều này xảy ra trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, phải mất bốn năm nỗ lực ngoại giao để trao đổi huy chương giữa các chủ sở hữu.

Một câu chuyện thú vị khác đã xảy ra với các huy chương Nobel của ba người đoạt giải vật lý trong Thế chiến II: người Đức Max von Laue (1914), người Đức Do Thái James Franck (1925), và người Đan Mạch Niels Bohr (1922). Từ năm 1933, Viện Vật lý Lý thuyết của Giáo sư Bohr tại Copenhagen đã trở thành nơi ẩn náu cho các nhà vật lý người Đức gốc Do Thái. Max von Laue và James Frank đã để lại huy chương Nobel của họ ở đó để tránh bị chính quyền Đức tịch thu. Sau khi Đan Mạch bị chiếm đóng vào tháng 4 năm 1940, Bohr bắt đầu lo lắng về sự an toàn của các huy chương, theo hồi ký của nhà hóa học người Hungary gốc Do Thái George de Hevesy (giải Nobel hóa học năm 1943), người làm việc tại cùng viện. Ở Đức Quốc xã, việc chuyển vàng ra nước ngoài được coi là một hành vi phạm tội rất nghiêm trọng. Vì tên của những người đoạt giải đã được khắc trên các huy chương nên việc nhận ra chúng là không hề khó khăn và hậu quả của việc này là rất nghiêm trọng. Một trích dẫn từ hồi ký của George de Hevesy: “Tôi đã đề nghị giấu huy chương, nhưng Bohr không thích ý tưởng đó vì cho rằng người ta có thể tìm thấy chúng. Tôi quyết định đem làm hòa tan chúng. Trong khi lính Đức đang tuần tra dọc theo các đường phố Copenhagen, tôi đã kịp làm hòa tan các huy chương của James Frank và Max von Laue. Sau chiến tranh, Quỹ Nobel đã hào phóng trao tặng huy chương Nobel mới cho Laue và Frank”. Hevesy đã viết cho Laue sau chiến tranh rằng việc làm hòa tan các huy chương là khó khăn vì vàng là một kim loại cực kỳ không phản ứng. Lính Đức quốc xã đã chiếm viện Bohr và lục soát rất kỹ càng nhưng không tìm thấy gì. Các huy chương được làm tan chảy trong dung dịch vodka hoàng gia. Hevesy không đề cập đến huy chương Nobel của Niels Bohr. Nhưng các tài liệu Lưu trữ về Niels Bohr ở Copenhagen cho thấy huy chương của ông cũng như huy chương Nobel về Sinh lý học và Y khoa năm 1920 của August Krogh đã được tặng cho cuộc đấu giá tổ chức ngày 12 tháng 3 năm 1940 để ủng hộ Quỹ Cứu trợ Phần Lan. Các huy chương này được một người giấu tên mua lại và tặng cho Bảo tàng Lịch sử Đan Mạch, nơi chúng vẫn được lưu giữ cho đến ngày nay. 

Mặt trước của các huy chương Vật lý, Hóa học, Văn học, Sinh lý học và Y khoa là giống nhau như đã nói ở trên. Mặt sau của huy chương Nobel Văn học mô tả một chàng trai trẻ ngồi dưới cây nguyệt quế, đang say mê lắng nghe và ghi lại bài hát của Nàng thơ. Dòng chữ trên huy chương có nội dung: “Inventas vitam juvat excoluisse per artes”. (Sáng tạo làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn thông qua nghệ thuật khám phá). Nội dung này lấy ý tưởng từ hai câu thơ trong thiên sử thi Aeneid của Virgil (Khúc ca VI, dòng 662-663):

Quique pii vates et Phoebo digna locuti,
Inventas aut qui vitam excoluere per artis,
(Cho những ai trong số các nhà tiên tri nói rằng chỉ Phoebus là xứng đáng
Cho những ai tô điểm cho đời bằng cách tạo ra nghệ thuật cho người phàm).

Cũng cần nói rằng câu “Inventas vitam juvat excoluisse per artes” dịch ra tiếng Việt có thể dịch theo nghĩa đen hoặc bóng và cho từng lĩnh vực cũng cần phải dịch tương thích. Thí dụ từ “phát minh” dùng trong các lĩnh vực Vật lý, Hóa học hay Sinh lý học và Y khoa thì trong Văn học phải là “sáng tạo”… 
Phía dưới hình của Nàng thơ và chàng trai trẻ khắc tên người được trao giải và dòng chữ “ACAD. SUEC” (viết tắt của Viện Hàn lâm Thụy Điển). Huy chương giải Nobel Văn học do Eric Lindbergh thiết kế. 


Mặt sau huy chương Nobel Sinh lý học và Y khoa mô tả Thiên tài Y học giữ cuốn sách mở trên đùi và hứng dòng nước chảy từ vách đá để làm dịu cơn khát của một cô gái bị bệnh. Dòng chữ trên huy chương Nobel Sinh lý học và Y khoa có nội dung như trên Huy chương Nobel Văn học đã nói trên. Phía dưới hình của Thiên tài Y học và cô gái khắc tên người được giải và dòng chữ: “REG. UNIVERSITAS MED. CHIR. CAROL” (viết tắt của từ Hội đồng Nobel của Viện Karonlinska). Huy chương giải Nobel Sinh lý học và Y khoa do Eric Lindbergh thiết kế. 

Hình nghiêng của Alfred Nobel ở mặt trước của huy chương Nobel Hòa bình hơi khác so với chân dung của ông trên các huy chương khác. Trên mặt sau của huy chương này là ba người đàn ông đứng thành vòng tròn trong vòng tay anh em bè bạn. Dòng chữ trên huy chương có nội dung: “Pro pace et fraternitate gentium” (Vì hòa bình và tình huynh đệ). Dòng chữ “Prix Nobel de la Paix” (Giải Nobel Hòa bình), năm trao giải và tên của người đoạt giải được khắc trên cạnh của huy chương. Huy chương giải Nobel Hòa bình do Gustav Vigeland thiết kế.

Mặt sau huy chương Nobel Vật lý và Hóa học (giống hệt nhau) mô tả nữ thần Tự nhiên nổi lên từ đám mây cầm trên tay sừng dê hoa quả (Cornucopia) tượng trưng cho sự phong phú và giàu có. Đứng bên cạnh là Thiên tài Khoa học đang hé mở chiếc khăn choàng che đầu Nữ thần Tự nhiên. Dòng chữ trên Huy chương Nobel Vật lý và Hóa học có nội dung như trên Huy chương Nobel Văn học đã nói trên. Phía dưới hình của Thiên tài Khoa học và Nữ thần Tự nhiên là tên của người đoạt giải và dòng chữ: “REG. ACAD. SCIENT. SUEC” (Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển). Huy chương giải Nobel Vật lý và Nobel Hóa học do Eric Lindbergh thiết kế. 

Mặt trước của Huy chương Nobel Kinh tế khắc hình nghiêng của Alfred Nobel và hai chiếc sừng dê hoa quả (Cornucopia) chéo nhau ở phía bên dưới. Dòng chữ vòng quanh ghi: “Sveriges Riksbank till Alfred Nobels Minne 1968” (Ngân hàng Trung ương Thụy Điển tưởng nhớ Alfred Nobel). Trên mặt sau của Huy chương là biểu tượng của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển dưới dạng ngôi sao Bắc Đẩu, ba vương miện nhỏ và một lớn ở trên cùng. Dòng chữ trên mặt sau của huy chương có nội dung: “Kungliga Vetenskaps Akademien” (Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển). Huy chương Nobel Kinh tế do Gunvor Svensson-Lundqvist thiết kế.


M. Maeterlinck - Giải Nobel Văn học năm 1911


Maurice Maeterlinck (tên đầy đủ là Count Maurice Polidore Marie Bernhard Maeterlinck (29 tháng 6 năm 1862 – 6 tháng 5 năm 1949) – nhà viết kịch, nhà thơ, nhà triết học người Bỉ viết bằng tiếng Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1911 “vì các hoạt động văn học đa dạng của ông, đặc biệt là các tác phẩm kịch có sự hình dung phong phú, sự tưởng tượng đầy thi vị”. Ông là tác giả của “Con chim xanh”, một vở kịch ngụ ngôn triết học nói về sự tìm kiếm muôn thuở của con người đối với hạnh phúc và nhận thức cuộc sống. Tác phẩm của Maeterlinck phản ánh sự cố gắng của tâm hồn để đạt đến sự hiểu biết và tình yêu.

Tiểu sử:
Sinh ngày 29-8-1962 tại Ghent trong một gia đình khá giả, bố làm công chứng, mẹ là con gái một luật sư giàu có. Sau khi tốt nghiệp trung học và Đại học Luật Mooris Maeterlinck lên tu nghiệp về luật tại Paris. Năm 1886, ông gia nhập Đoàn Luật sư Ghent, viết thơ, kí, phê bình cho các báo và tạp chí như Nước Bỉ trẻ (La Jeune Belgique), La Wallonie. Năm 1886 ông in truyện ngắn đầu tiên Cuộc tàn sát những kẻ vô tội; năm 1889 xuất bản tập thơ đầu tiên và vở kịch đầu tiên, được một nhà phê bình Pháp rất có thế lực là O. Mirbau hết lời khen ngợi. Từ đó ông bỏ nghề luật sư. Trong những năm tiếp theo, ông viết hàng loạt vở kịch cổ tích, tượng trưng, kịch rối... Năm 1895 M. Maeterlinck cưới vợ là Leblan - diễn viên tham gia đóng các vở kịch của ông và năm 1896 sang Paris sinh sống. M. Maeterlinck ủng hộ nghệ thuật thuần túy, là một trong những đại diện tiêu biểu của trường phái tượng trưng cả trong thơ ca lẫn sân khấu, trong các tác phẩm của mình mở ra một thế giới đầy màu sắc, mộng ảo chống lại số phận khắc nghiệt. Năm 1909 ông viết xong vở kịch Con chim xanh là một kiệt tác sân khấu của kể về những cuộc phiêu lưu kiếm tìm hạnh phúc qua hình tượng con chim xanh, trở thành một điển cố văn học biểu tượng cho hạnh phúc tình yêu.

Maurice Maeterlinck được trao giải Nobel Văn học nhờ những tác phẩm kịch mang nội dung phong phú, giàu tưởng tượng đầy thi vị. Ông thường sử dụng thể loại cổ tích bởi vì cổ tích là biểu hiện sâu nhất và giản dị nhất của nhận thức tập thể, khơi dậy những cảm xúc con người. Kịch của ông thể hiện những hệ thống triết lý hình thành một cách trực giác. Mô típ cái chết thường xuyên hiện diện trong tác phẩm của ông ở giai đoạn cuối mang thêm màu sắc của chủ nghĩa thần bí. M. Maeterlinck được coi là một trong những người khởi đầu của sân khấu kịch phi lí; các vở kịch của ông đến ngày nay vẫn được dàn dựng ở nhiều nước trên thế giới.

Trong Thế chiến I, ông xin vào dân quân nhưng không được chấp nhận vì quá tuổi và nhà văn đã thể hiện lòng yêu nước bằng hàng loạt cuộc nói chuyện tuyên truyền ở Châu Âu và Mỹ. Năm 1939 Đức quốc xã đe dọa chiếm cả châu Âu Mooris Maeterlinck chạy sang Bồ Đào Nha, khi cảm thấy rằng Bồ Đào Nha cũng sẽ bị Đức chiếm, ông cùng với vợ sang Mỹ. Năm 1947 ông trở về Nice, Pháp.

Ngoài giải Nobel Maurice Maeterlinck được tặng huân chương Đại thập tự của vua Leopold (1920), huân chương Thanh kiếm của Bồ Đào Nha (1939) và được vua Bỉ phong tước hiệu Bá tước (1932). Ông mất ngày 6-5-1949 tại Nice, Pháp.


Tác phẩm:
*Cuộc tàn sát những kẻ vô tội (Le massacre des innocénts, 1886), truyện.
* Vườn kính (Serres chaudes, 1889), tập thơ.
*Công chúa Maleine (La princesse Maleine, 1889), kịch.
*Người đàn bà đột nhập (L'intruse, 1890), kịch
*Những người mù (Les aveugles, 1890), kịch
*Bảy nàng công chúa (Les sept princesses, 1891), kịch
*Pelleas và Mélisande (Pelléas et Mélisande, 1892), kịch
*Alladine và Palomides (Alladine et Palomides, 1894), kịch
*Cái chết của Tintagiles (La mort de Tintagiles, 1894), kịch
*Kho báu của những kẻ nhẫn nhục (Le trésor des humbles, 1896), luận văn mĩ học.
*Mười hai khúc ca (Douze chansons, 1896), thơ
*Aglavaine và Selysette (Aglavaine et Selysette, 1896), kịch cổ tích
*Khôn ngoan và định mệnh (Le sagesse et la destinée, 1898), khảo luận triết học
*Đời sống loài ong (La vie des abeilles, 1900), khảo luận.
*Ariane và gã Râu Xanh (Ariane et Barbe-Bleue, 1901), kịch
*Monna Vanna (1902), kịch
*Ngôi đền vùi lấp (Le temple enseveli, 1902)
*Joyselle (1903), kịch
*Điều kì diệu của thánh Antoine (Le miracle de Saint-Antoine, 1903), kịch
*Trí tuệ của hoa (L'intelligence des fleurs, 1907)
*Con chim xanh (L'oiseau bleu, 1909), kịch
*Thị trưởng Stilemonde (Bourgmestre de Stilemonde, 1919)
*Miền tiên cảnh lớn (La grande féerie, 1924), tiểu luận
*Tai họa đã qua (Le malheur passe, 1925), kịch
*Đời sống của mối (La vie des termites, 1926), tiểu luận
*Đời sống không gian vũ trụ (La vie de l'espase, 1928), tiểu luận
*Đời sống loài kiến (La vie des fourmis, 1930), tiểu luận
*Quy luật vĩ đại (La grande loi, 1933), tiểu luận
*Trước mặt Chúa (Devant Dieu, 1937), tiểu luận
*Thế giới khác, hay khớp vũ trụ (L'autre monde ou le cardan stellaire, 1942), tiểu luận
*Mười lăm khúc ca (Quinze Chansons, 1900), thơ

MƯỜI LĂM KHÚC CA 
(Trọn bộ)


Nàng bị giam nơi hang động tối tăm
Nàng đánh dấu của mình lên cánh cửa
Bởi vì nàng đã quên ánh bình minh
Và chìa khóa đã rơi vào biển cả. 

Nàng chờ đợi những tháng ngày mùa hạ

Nàng đợi chờ như thế hơn bảy năm
Mỗi năm đi qua một kẻ du hành.  

Nàng cũng chờ những ngày tháng mùa đông

Mái tóc nàng sáng ngời trong bóng tối
Mái tóc nàng nhớ lại ánh bình minh. 

Khắp mọi nơi người ta đi tìm nàng

Họ đi tìm nàng giữa bao vách đá
Giữa đá hoang vu sáng những ánh đèn. 

Buổi tối nọ, có một kẻ du hành

Thấy ngạc nhiên, nhìn ngọn đèn rất lạ
Nhưng người không đủ can đảm đến gần. 

Người mơ màng, người nhìn qua bóng đêm

Nghĩ đấy nguồn vàng hoặc điều gì lạ
Rằng thiên thần đang ngồi chơi ở đó
Người vội quay lưng như kẻ đi đường. 

II

Nếu một ngày người ấy quay trở lại
Thì em biết nói gì với người ta?
– Hãy nói rằng chị đã chờ mòn mỏi
Đến một hôm, đã kiệt sức trông chờ…

Thế nếu như người ấy không nhận ra

Nếu như em bị người ta gặng hỏi?
– Em cứ lựa lời nói với người ta
Có thể người ta cũng đau buồn đấy…

Nếu người hỏi biết tìm chị nơi đâu

Thì biết nói sao cho người yên dạ?
– Chiếc nhẫn vàng của chị em hãy trao
Cho người ta, đừng nói thêm gì cả…

Nhưng nếu như người ấy hỏi em rằng

Sao không có lửa, sao nhà vắng vậy?
– Em hãy chỉ vào cánh cửa mở toang
Và ngọn đèn đã tắt cho người ấy…

Thế nếu như người ấy hỏi em rằng

Chị có buồn, chị có từng than thở
– Em hãy nói rằng chị đã cười lên
Để người ta vì chị mà đau khổ…

III 

Người ta  đã giết chết  ba cô bé
Để xem những gì trong tim của họ.

Con tim đầu tiên tràn đầy hạnh phúc

Và kể từ khi máu chảy trên đất
Có ba con rắn rít trong ba năm.  

Con tim thứ hai đầy sự dịu dàng

Và kể từ khi máu chảy xuống đó 
Có ba con cừu giữ trong ba năm. 

Con tim thứ ba chứa đầy đau khổ

Và kể từ ngày máu rơi xuống đó
Mắt ba thiên thần nhìn suốt ba năm. 

IV

Những cô gái bị buộc băng vào mắt
(Đã tháo ra những băng dán bằng vàng!)
Những cô gái bị buộc băng vào mắt
Tìm phận mình trên những nẻo xa xăm. 

Họ tháo băng vào giữa giờ chính ngọ

(Ô, hãy giữ lại những dải băng vàng!)
Họ tháo băng vào giữa giờ chính ngọ
Lối vào cung điện nằm ở trên đồng.

Họ gửi lời chào cuộc sống mến thương

(Những dải băng bằng vàng càng thắt chặt) 
Họ gửi lời chào cuộc sống mến thương
Họ không quay về, không còn lối thoát.

V

Có ba chị em mù
(Hy vọng và hy vọng)
Ba chị em mù quáng
Có ba cây đèn vàng. 

Cả ba đi lên tháp

(Họ,  bạn và chúng tôi)
Cả ba cùng lên tháp
Chờ đợi trong bảy ngày… 

Ôi! – Một người kêu lên

(Hy vọng và hy vọng)
Ôi! – Một người kêu lên
Đèn của tôi chiếu sáng… 

Ôi! – Tiếng người thứ hai

(Họ, bạn và chúng tôi)
Ôi! – Người thứ hai nói 
Vua đang đi lên kìa…

Người thứ ba nói – Không!

(Hy vọng còn đâu nữa)
Người thần thánh nói – Không!
Và đèn tắt trong gió… 

VI

Người ta đến nói rằng
(Các con ơi, ta sợ)
Người ta đến nói rằng
Chàng đã không còn nữa… 

Ta thắp ngọn đèn lên

(Các con ơi, ta sợ)
Ta thắp ngọn đèn lên
Rồi ra đi với nó…   

Ở cánh cửa đầu tiên

(Các con ơi, ta sợ)
Ở cánh cửa đầu tiên
Thấy run run ngọn lửa…

Ở cánh cửa thứ hai

(Các con ơi, ta sợ)
Ở cánh cửa thứ hai
Ngọn lửa đang thầm thĩ…

Ở cánh cửa thứ ba

(Các con ơi, ta sợ)
Ở cánh cửa thứ ba
Ánh sáng không còn nữa…

VII

Bảy con gái của tiên
Khi mẹ họ đã chết
Bảy con gái của tiên
Đang tìm đường để thoát. 

Họ thắp bảy ngọn đèn

Chìa khóa ngày đâu mất 
Tìm khắp bốn trăm phòng 
Chỉ bóng đêm dày đặc.

Đến hang động âm thanh

Đi xuống theo thời gian
Bên cánh cửa đóng kín
Họ thấy chìa khóa vàng.

Nhìn thấy biển bao la

Các con gái sợ chết
Trước cánh cửa kín mít
Họ không dám mở ra. 

VIII

Nàng có ba chiếc vương miện bằng vàng
Và nàng đã tặng chúng cho ai vậy?

Chiếc thứ nhất nàng tặng cho cha mẹ

Và họ đem mua những chiếc lưới vàng
Đến tận mùa xuân giữ nàng trong đấy. 

Chiếc thứ hai tặng cho những người tình

Họ đem mua ba chiếc gông bằng bạc
Suốt mùa thu giữ nàng trong gông xiềng.

Chiếc thứ ba nàng tặng cho trẻ con

Chúng đem mua ba cái xích bằng sắt
Và giữ nàng trong suốt cả mùa đông.

IX 

Buổi sáng sớm nàng hướng về cung điện
– Lúc mặt trời chỉ vừa mới mọc lên – 
Buổi sáng sớm nàng hướng về cung điện
Những hiệp sĩ vội vàng đưa mắt nhìn
Còn phụ nữ tất cả đều im lặng.

Nàng dừng lại ở cửa vào cung điện

– Lúc mặt trời chỉ vừa mới mọc lên – 
Nàng dừng lại ở cửa vào cung điện
Chao! Nữ hoàng bước ra từ tĩnh lặng
Người chồng hỏi mà lo lắng phân vân. 

Nàng đi đâu vội vàng từ sáng sớm?

– Trời lờ mờ, liệu nhìn thấy gì không –
Nàng đi đâu vội vàng từ sáng sớm?
Liệu có ai đang đợi ở bên trong?
Nhưng nàng không trả lời, nàng im lặng. 

Hướng người phụ nữ xa lạ, nàng bước xuống

– Trời lờ mờ, liệu nhìn thấy gì không –
Hướng người phụ nữ xa lạ, nàng bước xuống
Người phụ nữ kia ôm chầm lấy, hôn nàng.
Họ không nói lời, ánh mắt cũng không
Hai người vội đi về nơi cần đến. 

Nhà vua ngồi khóc ở bên cung điện

– Trời lờ mờ, liệu nhìn thấy gì không –
Nhà vua ngồi khóc ở bên cung điện
Nghe dường như tiếng bước chân xa dần
Nghe như từng chiếc lá đang rơi xuống. 



X

Chàng trai đã ra đi
(Cửa rung lên – tôi biết)
Chàng trai đã ra đi
Nàng mỉm cười vĩnh biệt…

Chàng trai quay trở lại

(Đèn nói – tôi biết mà)
Chàng trai quay trở lại
Nhưng nàng đã đi xa…

Tôi nhìn ra cái chết

(Tôi biết tâm hồn chàng)
Tôi nhìn ra cái chết
Tôi đã lấy hồn anh…

XI 

Mẹ ơi, mẹ không nghe tiếng bước chân
Mẹ ơi, người đến để báo cho con… 
Con gái ơi, đưa bàn tay cho mẹ
Con gái ơi, con tàu sắp khởi hành… 

Ôi mẹ ơi, chúng ta phải dè chừng…

Ôi mẹ ơi, liệu người ta đến không…
Ôi mẹ ơi, chẳng lẽ không thể cứu?
Ôi mẹ ơi, con tàu đang mờ dần… 

Ôi mẹ ơi, nàng đang bước đến gần…

Con gái ơi, con tàu nằm trong cảng… 
Ôi mẹ ơi, nàng đã mở cửa toang… 
Con gái ơi, người ta đang bước đến… 

Ôi mẹ ơi, có ai đang đến gần

Con gái ơi, neo đã được nhổ lên…
Ôi mẹ ơi, nàng thì thầm gì đó… 
Con giá ơi, con tàu vừa đi ngang…

Ôi mẹ ơi, những ngôi sao nàng gom…

Con gái ơi, đấy là bóng của buồm… 
Ôi mẹ ơi, nàng đập vào cửa sổ…
Con gái ơi, cửa sổ chắc mở toang…

Ôi mẹ ơi, bóng đêm khắp mọi phía…

Con gái ơi, con tàu giữa biển khơi…
Mẹ ơi, con nghe thấy nàng khắp nơi…
Con gái ơi, con nói về ai thế?... 

XII

Các bạn thắp lên những ngọn đèn –
Còn tôi thấy mặt trời trong khu vườn –
Các bạn thắp lên những ngọn đèn.
Tôi thấy ánh mặt trời qua khe hở.
Hãy mở toang cánh cửa vào khu vườn!

Chìa khóa mở cửa đã đánh mất rồi

Thì chúng ta phải chờ đợi mà thôi.
Chìa khóa mở cửa đã đánh mất rồi
Thì chúng ta phải chờ đợi mà thôi.
Cần phải đợi đến một ngày nào đó… 

Ngày nào đó cánh cửa sẽ mở toang

Rừng của ta đã đóng cửa cài then
Và rừng sẽ cháy bừng trong ngọn lửa.
Những chiếc lá chết rõ ràng sáng tỏ
Gửi cho ta vẻ nghiệt ngã của mình. 

Những ngày nào đó mệt mỏi lắm rồi

Những ngày nào đó chắc gì đến được
Những ngày nào đó rồi đây cũng chết
Vẻ âu lo, nỗi sợ hãi dâng đầy
Ta sẽ chết cùng với chúng ở đây.

XIII

Tôi đi tìm ba mươi năm rồi, chị em ơi
Chàng trốn ở đâu đó?
Tôi lang thang ba mươi năm rồi, chị em ơi
Không tìm ra đâu cả… 

Ba mươi năm tôi thơ thẩn, chị em ơi

Đôi chân của tôi mệt lử
Chàng ở khắp mọi nơi, chị em ơi
Mà không nơi này nơi nọ… 

Giờ buồn đến gần rồi, chị em ơi

Buồn đau gần lắm
Buổi tối cũng chết, chị em ơi
Hồn tôi đau lắm… 

Em mới mười sáu tuổi, chị em ơi

Giờ đến lượt em rồi đấy
Hãy nhận lấy cây gậy này, chị em ơi
Rồi đi tìm cho thấy…  

XIV 

Có ba chị em muốn chết
Họ đội ba vương miện bằng vàng
Và họ ra đi tìm cái chết.

Cả ba chị em tìm đến khu rừng

– Rừng ơi, hãy cho chúng tôi xin cái chết
Chúng tôi xin dâng ba vương miện bằng vàng. 

Rừng mỉm cười với cả ba chị em

Và hôn họ, mỗi người mười hai lần
Chỉ cho họ điều trong tương lai sẽ đến. 

Có ba chị em muốn chết

Họ đi tìm đường ra biển – đại dương
Sau ba năm thì cũng gặp.

– Biển ơi, hãy cho chúng tôi xin cái chết

Chúng tôi xin dâng ba vương miện bằng vàng. 

Biển – đại dương gào lên khóc nức nở

Gửi cho họ ba trăm nụ hôn
Chỉ cho họ điều đã từng trong quá khứ.

Có ba chị em muốn chết

Họ đi tìm một thành phố vinh quang
Thành phố trên đảo cuối cùng tìm được. 

– Thành phố ơi, hãy cho chúng tôi xin cái chết

Chúng tôi xin dâng ba vương miện bằng vàng. 

Và thành phố chào đó họ hân hoan

Hôn họ bằng những nụ hôn cháy bỏng
Chỉ cho họ điều hiện tại họ đang.  

XV

Bài này lấy từ vở kịch “Chị Beatrice” (Sœur Beatrice).


Hồn nào đã từng đau

Lỗi lầm trong phút chốc
Ta mở những vì sao
Bằng đôi tay hồng phúc. 

Lỗi lầm không thể sống

Nơi tình yêu đau buồn
Linh hồn không thể chết
Nơi tình nước mắt tuôn.

Nếu ai đã từng yêu

Mà nếm mùi gian dối.
Nước mắt đến với ta
Không thể nào lạc lối.





Quinze Chansons

I
Elle l'enchaîna dans une grotte,
Elle fit un signe sur la porte ;
La vierge oublia la lumière
Et la clef tomba dans la mer.

Elle attendit les jours d'été :
Elle attendit plus de sept ans,
Tous les ans passait un passant.

Elle attendit les jours d'hiver ;
Et ses cheveux en attendant
Se rappelèrent la lumière.

Ils la cherchèrent, ils la trouvèrent,
Ils se glissèrent entre les pierres
Et éclairèrent les rochers.

Un soir un passant passe encore,
II ne comprend pas la clarté
Et n'ose pas en approcher.

II croit que c'est un signe étrange,
II croit que c'est une source d'or,
II croit que c'est un jeu des anges,
II se détourne et passe encore...

II
Et s'il revenait un jour
  Que faut-il lui dire?
- Dites-lui qu'on l'attendit
  Jusqu'à s'en mourir...

Et s'il m'interroge encore
  Sans me reconnaître?
- Parlez-lui comme une sœur,
  II souffre peut-être...

Et s'il demande où vous êtes
  Que faut-il repondre?
- Donnez-lui mon anneau d'or
  Sans rien lui répondre...

Et s'il veut savoir pourquoi
  La salle est déserte ?
- Montrez-lui la lampe éteinte
  Et la porte ouverte...

Et s'il m'interroge alors
  Sur la dernière heure?
- Dites-lui que j'ai souri
  De peur qu'il ne pleure...

III
Ils ont tué trois petites filles
Pour voir ce qu'il y a dans leur cœur.

Le premier était plein de bonheur ;
Et partout où coula son sang,
Trois serpents sifflèrent trois ans.

Le deuxième était plein de douceur,
Et partout où coula son sang,
Trois agneaux broutèrent trois ans.

Le troisième était plein de malheur,
Et partout où coula son sang,
Trois archanges veillèrent trois ans.

IV
Les filles aux yeux bandés
    (Ôtez les bandeaux d'or)
Les filles aux yeux bandés
Cherchent leurs destinées...

Ont ouvert à midi,
     (Gardez les bandeaux d'or)
Ont ouvert à midi,
Le palais des prairies...

Ont salué la vie,
    (Serrez les bandeaux d'or)
Ont salué la vie,
Et ne sont point sorties...

V
Les trois sœurs aveugles
    (Espérons encore)
Les trois sœurs aveugles
Ont leurs lampes d'or;

Montent à la tour,
    (Elles, vous et nous)
Montent à la tour,
Attendent sept jours...

Ah ! dit la première,
    (Espérons encore)
Ah ! dit la première,
J'entends nos lumières...

Ah ! dit la seconde,
    (Elles, vous et nous)
Ah ! dit la seconde,
C'est le roi qui monte...

Non, dit la plus sainte,
    (Espérons encore)
Non, dit la plus sainte,
Elles se sont éteintes...

VI
On est venu dire,
    (Mon enfant, j'ai peur)
On est venu dire
Qu'il allait partir...

Ma lampe allumée,
    (Mon enfant, j'ai peur)
Ma lampe allumée,
Me suis approchée...

À la première porte,
    (Mon enfant, j'ai peur)
A la première porte,
La flamme a tremblé...

À la seconde porte,
    (Mon enfant, j'ai peur)
À la seconde porte,
La flamme a parlé...

À la troisième porte,
    (Mon enfant, j'ai peur)
À la troisième porte,
La lumière est morte...

VII
Les sept filles d'Orlamonde,
    Quand la fée fut morte,
Les sept filles d'Orlamonde,
    Ont cherché les portes.

Ont allumé leurs sept lampes,
    Ont ouvert les tours,
Ont ouvert quatre cents salles,
    Sans trouver le jour...

Arrivent aux grottes sonores,
    Descendent alors ;
Et sur une porte close,
    Trouvent une clef d'or.

Voient l'océan par les fentes,
    Ont peur de mourir,
Et frappent à la porte close,
    Sans oser l'ouvrir...

VIII
Elle avait trois couronnes d'or,
À qui les donna-t-elle ?

Elle en donne une à ses parents:
Ont acheté trois réseaux d'or
Et l'ont gardée jusqu'au printemps.

Elle en donne une à ses amants:
Ont acheté trois rets d'argent
Et l'ont gardée jusqu'à l'automne

Elle en donne une à ses enfants:
Ont acheté trois nœuds de fer,
Et l'ont enchaînée tout l'hiver.

IX
Elle est venue vers le palais
- Le soleil se levait à peine -
Elle est venue vers le palais,
Les chevaliers se regardèrent
Toutes les femmes se taisaient.

Elle s'arrêta devant la porte
- Le soleil se levait à peine -
Elle s'arrêta devant la porte
On entendit marcher la reine
Et son époux l'interrogeait.

Où allez-vous, où allez-vous?
- Prenez garde, on y voit à peine -
Où allez-vous, où allez-vous?
Quelqu'un vous attend-il là-bas?
Mais elle ne répondait pas.

Elle descendit vers l'inconnue,
- Prenez garde, on y voit à peine -
Elle descendit vers l'inconnue,
L'inconnue embrassa la reine,
Elles ne se dirent pas un mot
Et s'éloignèrent aussitôt.

Son époux pleurait sur le seuil
- Prenez garde, on y voit à peine -
Son époux pleurait sur le seuil
On entendait marcher la reine
On entendait tomber les feuilles.

X
Quand l'amant sortit
(J'entendis la porte)
Quand l'amant sortit
Elle avait souri...

Mais quand il rentra
(J'entendis la lampe)
Mais quand il rentra
Une autre était là...

Et j'ai vu la mort
(J'entendis son âme)
Et j'ai vu la mort
Qui l'attend encore...

XI
Ma mère, n'entendez-vous rien?
Ma mère, on vient avertir...
Ma fille, donnez-moi vos mains.
Ma fille, c'est un grand navire...

Ma mère, il faut prendre garde...
Ma fille, ce sont ceux qui partent...
Ma mère, est-ce un grand danger?
Ma fille, il va s'éloigner...

Ma mère. Elle approche encore...
Ma fille, il est dans le port. r
Ma mère, Elle ouvre la porte...
Ma fille, ce sont ceux qui sortent.

Ma mère, c'est quelqu'un qui entre...
Ma fille, il a levé l'ancré.
Ma mère, Elle parle à voix basse...
Ma fille, ce sont ceux qui passent.

Ma mère, Elle prend les étoiles!...
Ma fille, c'est l'ombre des voiles.
Ma mère. Elle frappe aux fenêtres...
Ma fille, elles s'ouvrent peut-être...

Ma mère, on n'y voit plus clair...
Ma fille, il va vers la mer.
Ma mère, je l'entends partout...
Ma fille, de qui parlez-vous ?

XII
Vous avez allumé les lampes,
- Oh ! le soleil dans le jardin !
Vous avez allumé les lampes,
Je vois le soleil par les fentes,
Ouvrez les portes du jardin !

- Les clefs des portes sont perdues,
II faut attendre, il faut attendre,
Les clefs sont tombées de la tour,
II faut attendre, il faut attendre,
II faut attendre d'autres jours...

D'autres jours ouvriront les portes,
La forêt garde les verrous,
La forêt brûle autour de nous,
C'est la clarté des feuilles mortes,
Qui brûlent sur le seuil des portes...

- Les autres jours sont déjà las,
Les autres jours ont peur aussi,
Les autres jours ne viendront pas,
Les autres jours mourront aussi,
Nous aussi nous mourrons ici...

XIII
J'ai cherché trente ans, mes sœurs,
    Où s'est-il caché?
J'ai marché trente ans, mes sœurs,
    Sans m'en approcher...

J'ai marché trente ans, mes sœurs,
    Et mes pieds sont las,
II était partout, mes sœurs,
    Et n'existe pas...

L'heure est triste enfin, mes sœurs,
    Ôtez mes sandales,
Le soir meurt aussi, mes sœurs,
    Et mon âme a mal...

Vous avez seize ans, mes sœurs,
    Allez loin d'ici,
Prenez mon bourdon, mes sœurs,
    Et cherchez aussi...

XIV
Les trois sœurs ont voulu mourir
Elles ont mis leurs couronnes d'or
Et sont allées chercher leur mort.

S'en sont allées vers la forêt:
« Forêt, donnez-nous notre mort,
Voici nos trois couronnes d'or. »

La forêt se mit à sourire
Et leur donna douze baisers
Qui leur montrèrent l'avenir.

Les trois sœurs ont voulu mourir
S'en sont allées chercher la mer
Trois ans après la rencontrèrent:

« Ô mer donnez-nous notre mort,
Voici nos trois couronnes d'or. »

Et la mer se mit à pleurer
Et leur donna trois cents baisers,
Qui leur montrèrent le passé.

Les trois sœurs ont voulu mourir
S'en sont allées chercher la ville
La trouvèrent au milieu d'une île :

« Ô ville, donnez-nous notre mort,
Voici nos trois couronnes d'or. »

Et la ville, s'ouvrant à l'instant
Les couvrit de baisers ardents,
Qui leur montrèrent leur présent.

XV

Cantique de la Vierge dans « Sœur Béatrice »

À toute âme qui pleure,
A tout péché qui passe,
J'ouvre au sein des étoiles
Mes mains pleines de grâces.

Il n'est péché qui vive
Quand l'amour a parlé,
II n'est d'âme qui meure
Quand l'amour a pleuré...

Et si l'amour s'égare
Aux sentiers d'ici-bas,
Ses larmes me retrouvent
Et ne se perdent pas...





NÀNG ĐI TÌM KIẾM TÌNH

Nàng đi tìm kiếm tình

Ở những miền xa lạ
Nàng đi khắp thiên hạ
Khắp những cánh rừng hoang
Khắp núi đồi, biển cả.

Nàng đi tìm kiếm tình

Nhưng chẳng tìm thấy nó.

Khi trở về nhà mình

Trước cung điện của nàng
Có ông già gõ cửa
Ông dùng chiếc nhẫn vàng
Để đập vào cánh cửa.

– Ông già cần gì thế?

– Thấm thoát ba mươi năm
Từ ngày tôi biết em.
– Tôi cũng nhận ra ông.
– Tôi vẫn chờ vẫn đợi.

– Nhưng đầu ông bạc trắng!

– Tôi đợi ba mươi năm
Hãy đưa tay tôi nắm.
– Này ông, tôi vui lòng!
– Ba mươi năm đằng đẵng.



BẢY NĂM NÀNG BỊ KHÓA


Bảy năm nàng bị khóa

Trong một ngọn tháp cao
Bảy năm chẳng tìm đâu
Ra được chìa khóa cả
Mà nước chảy dưới cầu
Vẫn đổ về biển cả. 

Có một ông vua nọ

Có chiếc chìa khóa vàng
Gõ cửa nàng cả tuần
Nhưng chìa không hợp khóa.
– Tìm chìa khác ở đâu?
– Hãy tìm nơi biển cả.

Một người đàn ông khác

Có chiếc chìa khóa bạc
Cũng gõ cửa cả tuần
Nhưng chìa cũng không hợp
– Tìm ở đâu chìa khác?
– Hãy tìm nó trên rừng.

Rồi một kẻ nghèo hèn

Với chìa khóa bằng đồng
Nhưng cũng không mở được
Dù hì hục cả tuần
– Tìm ở đâu chìa khác?
– Ở sau đám mây đen.

Đến lượt chàng thanh niên

Có chiếc chìa khóa sắt
Chàng không hề khó nhọc
Mở ngay cửa bước vào.
– Anh tìm thấy ở đâu?
– Anh chỉ nhìn thấy nó
Ở ngay cửa ra vào.

Xem thêm: