Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

Seamus Heaney - Giải Nobel Văn học năm 1995


Seamus Jastin Heaney (1939-) - nhà thơ Ireland đoạt giải Nobel Văn học 1995 “vì vẻ đẹp trữ tình và chiều sâu đạo đức của những tác phẩm thơ ca, mang đến cho chúng ta những phép lạ hàng ngày và quá khứ sống động”. Nhà thơ Mỹ Robert Lowell gọi ông là “nhà thơ Ailen quan trọng nhất kể từ Yeats” và nhiều người khác, trong đó có học giả John Sutherland, nói rằng ông là “nhà thơ vĩ đại nhất của thời đại chúng ta”. Sau cái chết của ông vào năm 2013, nhật báo The Independent gọi ông “có lẽ là nhà thơ nổi tiếng nhất trên thế giới”. 

Tiểu sử:
Seamus Heaney sinh ngày 13-4-1939 tại một làng quê Bắc Ireland, mười hai tuổi nhận được học bổng và đến học tại trường cao đẳng St. Columb, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hoàng gia Belfast năm 1961. Từ năm 1975 – 1980 ông dạy học tại Carysfort College (Dublin). Năm 1982 dạy Đại học Harvard, năm 1984 được phong hàm giáo sư và từ 1989-1994 dạy ở Đại học Oxford. 

Những vần thơ đầu tiên ông viết khi còn là giáo viên ở Belfast, tập thơ đầu tay Cái chết của nhà tự nhiên học ra đời năm 1966. Các tập thơ Cánh cửa mở vào bóng đêm (1969), Hết mùa đông (1972) tiếp tục những mô-típ quen thuộc: cái chết và đất đai. Đất đai là biểu tượng của số phận, là nguồn gốc của tất cả, là sự kết hợp giữa tàn phá và dựng xây, của sự yên nghỉ muôn đời và sự hồi sinh lại. Các tiểu luận của ông Quyền lực của ngôn từ và Thơ ca đứng lên bày tỏ những suy nghĩ về trách nhiệm công dân đối với số phận của đất nước bị chia cắt và tàn phá. Bản dịch thiên sử thi thời trung cổ Boewulf của ông ra tiếng Anh hiện đại được xếp là cuốn sách best-seller năm 2000 ở Anh và Mỹ. 

Seamus Heaney là thành viên của Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Ireland; thành viên nước ngoài của Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Mỹ, được nhận nhiều bằng danh dự của các trường đại học. Năm 1996, Seamus Heaney là người thứ tư của đảo quốc nhỏ bé Ireland được trao giải Nobel Văn học, vì ông đã sáng tạo ra 9 tập thơ mang vẻ đẹp trữ tình và chiều sâu thẩm mỹ, tôn vinh những phép lạ của đời thường và của quá khứ sống động. Đối với Seamus Heaney, nhiệm vụ của nhà thơ là bảo vệ cái đẹp đặc biệt là khi các chế độ độc tài tiêu diệt nó.Ngoài ra, ông còn nhận được giải thưởng nghệ thuật và văn chương do Bộ Văn hóa Pháp trao tặng. S. Heaney được coi là nhà thơ số một trên đảo quốc Ireland nhiều tài năng văn học.

Seamus Heaney qua đời tại bệnh viện Blackrock ở Dublin ngày 30 tháng 8 năm 2013, sau một thời gian ngắn bị bệnh, hưởng thọ 74 tuổi. Con trai Michael của ông đã tiết lộ trong đám tang rằng cha ông đã đưa ra những lời cuối cùng “Noli timere” (tiếng Latinh: "”Đừng sợ”), cho vợ ông, Marie, vài phút trước khi ông qua đời. Thi hài của ông mai táng tại Nghĩa trang của Nhà thờ St. Mary, Bellaghy, Quận Londonderry, Bắc Ailen. Trên bia mộ có khắc dòng chữ “Walk on air against your better judgement” – là một câu thơ nổi tiếng của ông.  

Tác phẩm:
*Cái chết của nhà tự nhiên học (Death of a naturalist, 1966), thơ
*Cánh cửa mở vào bóng đêm (Door into the dark, 1969), thơ
*Hết đông (Wintering out, 1972), thơ
*Miền Bắc (North, 1975), thơ
*Công việc đồng áng (Field work, 1979), thơ
*Những mối bận tâm (Preoccupations, 1980), tập tiểu luận của thời kì 1968-1978.
*Lạc đường (Sweeney astray, 1984), thơ
*Đồn đảo (Station Island, 1984), thơ
*Ngọn đèn sơn tra (The haw lantern, 1987), thơ
*Quyền lực của ngôn từ (The government of the tongue, 1988), tiểu luận
*Thấy sự vật (Seeing things, 1991), thơ
*Việc chữa bệnh ở Troy (The cure at Troy, 1991), kịch
*Tiểu luận về thơ ca đương đại Bắc Ireland (Essays on the contemporary poetry of Northern Ireland, 1992), nghiên cứu phê bình.
*Tập tiểu luận phê bình (A collection of critical essays, 1993), tiểu luận
*Điều chỉnh lại thơ ca (The redress of poetry, 1995), tiểu luận
*Cấp độ của tâm hồn (The spirit level, 1996), thơ
*Ánh điện (Electric light, 2001), thơ

Một số bài thơ


GIÃ BIỆT

Cô em mặc váy kẻ ô
Và chiếc áo choàng đơn giản
Từ ngày cô bỏ nhà đi
Ngôi nhà tiêu điều, hoang vắng.

Khi em có mặt
Thời gian thả neo
Trên nụ cười, nhưng em đi mất
Nhổ neo, choáng váng tình yêu.

Tháng ngày vội vàng, gấp rút
Đi qua hết gần cuốn lịch
Dồn vào lặng lẽ âm thanh
Của giọng nói em dịu dàng.

Thiếu em, tan tác bến bờ anh
Em đi rồi, anh một mình trên biển
Đến một ngày em chưa bỏ lệnh
Thì anh vẫn còn nổi loạn, cuồng điên.

Valediction

Lady with the frilled blouse
And simple tartan skirt,
Since you have left the house
Its emptiness has hurt

All thought. In your presence
Time rode easy, anchored
On a smile; but absence
Rocked love's balance, unmoored

The days. They buck and bound
Across the calendar
Pitched from the quiet sound
Of your flower-tender

Voice. Need breaks on my strand;
You've gone, I am at sea.
Until you resume command
Self is in mutiny.



YÊU DẤU ARAN(1)

những con sóng muôn đời, sạch sẽ, trắng trong, kính vỡ
đi vào vách đá, làm cho mắt lóa, sững sờ
những con sóng đến từ hai châu Mỹ.

chinh phục Aran. Hay là Aran vội vã
giang rộng vòng tay của đá bên con nước thủy triều
có phải chết con nước ròng và nhẹ nhàng tan vỡ?

biển vạch ranh giới với đất liền, hay đất với biển?
biển xâm phạm đất liền để hòa quyện vào nhau
theo cách của mình, ý nghĩa từng con sóng.
__________

(1)Aran – một hòn đảo ở bờ tây của Ai-len

Lovers on Aran

The timeless waves, bright, sifting, broken glass,
Came dazzling around, into the rocks,
Came glinting, sifting from the Americas

To posess Aran. Or did Aran rush
to throw wide arms of rock around a tide
That yielded with an ebb, with a soft crash?

Did sea define the land or land the sea?
Each drew new meaning from the waves' collision.
Sea broke on land to full identity.



THÁNH FRANCIS VÀ CHIM

Khi Francis rao giảng tình yêu cho chim
Chúng lắng nghe, đập, vỗ cánh rồi bay
Lên trời xanh, giống như một bầy lời.

Lời mua vui từ môi thánh của Ngài.
Sau quay trở lại trên đầu bay lượn
Nhảy múa trên chiếc mũ của anh trai. 

Nhảy trên cánh, những con chim đùa vui
Và hát lên, như hình ảnh đang bay. 
Bài thơ hay nhất mà Francis thể hiện

Lý lẽ chính xác và giọng Ngài mềm mỏng. 

Saint Francis and the birds

When Francis preached love to the birds,
They listened, fluttered, throttled up
Into the blue like a flock of words

Released for fun from his holy lips.
Then wheeled back, whirred about his head,
Pirouetted on brother's capes,

Danced on the wing, for sheer joy played
And sang, like images took flight.
Which was the best poem Francis made,

His argument true, his tone light.


GIÀN GIÁO

Những người thợ khi bắt đầu xây nhà
Kiểm tra kỹ xem giàn giáo chắc chưa

Để không bị rơi từ trên cao xuống
Kiểm tra thang, bắt vít ốc chắc chắn

Xây xong rồi mà đổ xuống ai cần
Bởi đá cứng, chắc chắn những bức tường.

Thì chuyện của anh và em cũng vậy
Em ngỡ rằng cây cầu xưa đã gãy

Em đừng sợ. Dù cho giàn giáo rơi
Nhưng ta đã xây tường chắc chắn rồi.

Scaffolding

Masons, when they start upon a building,
Are careful to test out the scaffolding;

Make sure that planks won't slip at busy points,
Secure all ladders, tighten bolted joints.

And yet all this comes down when the job's done,
Showing off walls of sure and solid stone.

So if, my dear, there sometimes seem to be
Old bridges breaking between you and me,

Never fear. We may let the scaffolds fall,
Confident that we have built our wall.



NGƯỜI ĐÀN ÔNG TOLLUND*
(The Tollund man)

Một hôm tôi đến Aarhus
Để xem xác ướp của ông
Quanh đầu có những vỏ đậu
Mũ da và mí mắt sưng. 

Ở bên quốc gia láng giềng
Người ta đã đào thấy ông
Những hạt giống mùa đông cuối
Tích tụ trong dạ dày ông.

Trần truồng – chỉ còn dây lưng
Mũ và dây vòng quanh cổ.
Tôi sẽ đứng lâu ở đó.
Chàng rể dành cho nữ thần

Người ta tìm thấy trong đầm
Than bùn giữ thân xác ông
Như là một thứ nước ép
Giữ gìn thân thể thiêng liêng. 

Giữ gìn thân xác thánh thần
Nhờ công lao của than bùn.
Bây giờ khuôn mặt còn vết
Được yên nghỉ trong bảo tàng.
__________
*Người đàn ông Tollund là xác chết được ướp xác tự nhiên của một người đàn ông sống vào thế kỷ thứ 4 tr. CN, trong thời kỳ đồ sắt tiền La Mã. Xác ướp này được tìm thấy ở Đan Mạch trong một đầm lầy than bùn. Xác ướp này được bảo tồn tốt đến mức, khi được phát hiện người ta đã lầm tưởng đây là nạn nhân của một vụ giết người gần đây. Xác ướp này hiện được bảo quản tại bảo tàng của Đại học Aarhus, Đan Mạch. 


The Tollund man

I
Some day I will go to Aarhus
To see his peat-brown head,
The mild pods of his eye-lids,
His pointed skin cap.

In the flat country near by
Where they dug him out,
His last gruel of winter seeds
Caked in his stomach,

Naked except for
The cap, noose and girdle,
I will stand a long time.
Bridegroom to the goddess,

She tightened her torc on him
And opened her fen,
Those dark juices working
Him to a saint's kept body,

Trove of the turfcutters'
Honeycombed workings.
Now his stained face
Reposes at Aarhus.





ANTAEUS(1)

Tôi thức dậy buổi bình minh
Như bông hoa hồng – tươi và sáng
Thì mối đe doạ của ngoại bang
Trong cuộc chiến này tôi sẽ thắng.

Những sức mạnh của đất đai
Những dòng nước ngầm sôi nổi
Tôi sẽ mang theo trong người
Khi tôi lăn vào trong đất bụi.

Nơi phát sinh của tôi – là bóng tối
Là đá ngầm, là gốc rễ của cây
Là cơn lốc ngầm và sự vần xoay
Là hang động, đất đai và nước nổi.

Cứ xuất hiện thêm một anh hùng mới
Hecrales trên đường đến khu vườn.
Nhưng để giết được tôi trong cuộc chiến tranh
Thì đánh nhau là điều không tránh khỏi.

Và giờ đây tôi nằm trong đất bụi
Nhưng sức mạnh mới tràn đầy
Dù nó biết rằng cần xua tôi đi khỏi
Mặt đất quê hương rất mạnh mẽ này.
____________
(1)Antaeus (Antaios) – theo thần thoại Hy Lạp là một trong số thần khổng lồ, là con trai của Poseidon và nữ thần Gaea Libia. Là thần không thể đánh bại một khi còn chạm vào mẹ mình là thần đất Gaea thì luôn lấy lại được sức mạnh. Hecrales trên đường đến khu vườn để lấy cắp quả táo của các nàng Hesperides đã giết được Antaeus bằng cách nhấc bổng thần lên cao rồi bóp chết (kì công thứ 11).

Antaeus

When I lie on the ground 
I rise flushed as a rose in the morning.
In fights I arrange a fall on the ring 
To rub myself with sand.

That is operative
As an elixir. I cannot be weaned
Off the earth's long contour, her river-veins.
Down here in my cave

Girded with root and rock
I am cradled in the dark that wombed me
And nurtured in every artery
Like a small hillock.

Let each new hero come
Seeking the golden apples and Atlas:
He must wrestle with me before he pass
Into that realm of fame

AMong sky-born and royal.
He may well throw me and renew my birth
But let him not plan, lifting me off the earth,
My elevation, my fall.


THEN CỬA BUÔNG

Then cửa buông – một tia nắng mỏng
Cắt vào sân chẳng nhìn ra.
Hành lang màu vàng chúng đi qua
Rồi lặng lẽ mất hút vào đêm vắng.

Ngày e ấp chiếu sáng lên
Khung cửa, bậc thềm và đá
Khi quay trở về, đêm lặng lẽ
Chùi lên sân đã thấy rõ rành.



W. Szymborska - Giải Nobel Văn học năm 1996


Wislawa Szymborska (tên đầy đủ: Maria Wisława Anna Szymborska, 2 tháng 7 năm 1923 – 1 tháng 2 năm 2012) – nữ nhà thơ Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học năm 1996 “cho thơ với độ chính xác tối đa mô tả các hiện tượng lịch sử và sinh học trong bối cảnh thực tế của con người”. Nét đặc trưng trong sáng tạo của Szymborska là những vấn đề về triết học và đạo đức, thi pháp xưng tội và tính phản xạ, mối quan hệ giữa sự vĩnh cửu và tạm thời, tồn tại và không tồn tại, sự bố trí hợp lý của từng bài thơ. Danh tiếng của bà dựa trên một khối lượng công việc tương đối nhỏ, dưới 350 bài thơ. Khi được hỏi tại sao bà đã xuất bản ít thế, bà trả lời: “Tôi có một thùng rác ở trong nhà”.
 
Tiểu sử
Wislawa Szymborska sinh ngày 2-7-1923 tại Bnin (nay là Kurnik, gần Poznan). Năm 1929 gia đình chuyển đến Krakow. Học xong bậc tiểu học năm 1935 và học xong trung học ở trường bí mật năm 1941, khi Ba Lan còn bị Đức chiếm đóng. Một thời gian ngắn Szymborska làm công nhân đường sắt. Từ năm 1945-1947 học văn học Ba Lan và xã hội học tại Đại học Jagielloński; năm 1945 khởi đầu sự nghiệp sáng tác vào với bài thơ đăng báo Tôi tìm lời, năm 1952 in tập thơ đầu tiên Vì lẽ này chúng ta đang sống và được kết nạp vào Hội Nhà văn Ba Lan.

Phong cách thơ W. Szymborska thời kỳ này mang tính hiện thực truyền thống, viết về chiến tranh, quân đội, Tổ quốc. Năm 1957, Szymborska xuất bản tập thơ thứ ba Lời kêu gọi đối với người tuyết được dư luận quan tâm (trong nguyên tác sử dụng từ “Yeti”, thổ ngữ Himalai có nghĩa là “người tuyết”, ám chỉ thủ lĩnh của “xứ tuyết” láng giềng). Thời kỳ này bà thường viết lối thơ tự do, đặc trưng cho các nhà thơ Tây Âu đương đại, nhưng thơ Szymborska không trừu tượng mà cụ thể và dễ hiểu.

Trong những năm 1953-1981, bà là biên tập viên thơ và là người viết xã luận trên tuần báo Đời sống văn học, các tiểu luận của bà về sau được tập hợp xuất bản dưới dạng sách tái bản nhiều lần. Từ 1952-1996, bà đã xuất bản 16 tập thơ. Ngoài ra, bà còn dịch thơ Pháp, Nga ra tiếng Ba Lan.

Wislawa Szymborska đã được nhiều giải thưởng văn học cao quý. Năm 1954 bà được tặng giải thưởng của thành phố Krakow; năm 1963 đoạt giải Văn học của Bộ trưởng Văn hóa Nghệ thuật Ba Lan; giải thưởng Goethe của Đức (1991) và giải thưởng Herder của áo (1995). Bà được trao bằng Tiến sĩ Văn chương Đại học Poznan (1995) và giải thưởng Hội Văn bút Ba Lan (1996). 

 Wislawa Szymborska từ giã cõi đời trong một giấc ngủ ở nhà mình, có bạn bè và người thân bên cạnh. Thơ của bà được dịch ra gần 40 thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.
 
Tác phẩm
Vĩ lẽ này chúng ta đang sống (Dlatego zyjemy, 1952), thơ
*Những câu hỏi cho mình (Pytania zadawane sobie, 1954), thơ
*Lời kêu gọi đối với người tuyết (Wolanie do yeti, 1957), thơ
Muối (Sols, 1962), thơ
*Sili (1965), thơ
*Tuyển thơ (Poezje wybrane, 1967), thơ
*Một trăm trò hề (Sto pociech, 1967), thơ
Thơ (Poezje, 1970), thơ
*Trường hợp bất kì (Wszelki wypadek, 1972), thơ
Tarsius và những bài thơ khác (Tarsjusz i inne wiersze, 1976), thơ
*Số lớn (Wielka liczba, 1976), thơ
*Những người trên cầu (Ludzie na moscie, 1985), thơ
*Buổi chiều của tác giả (Wieczúr autorski, 1992), thơ
*Kết thúc và mở đầu (Koniec i poczatek, 1993), thơ
 
12 bài thơ
 

NHÀ GA

Sự không có mặt của em đến thành phố N
Đã theo đúng thời gian biểu.

Em đã báo trước với anh
Bằng bức điện mà rồi em không gửi.

Và anh đã không kịp tới
Theo thời gian hẹn hò.

Con tàu đi vào đường thứ ba
Có rất nhiều người ra đón.

Trong đám đông, em hướng về phía cổng
Không có người đưa đón của mình.

Một vài người phụ nữ vội vàng
Nhìn theo em
Bước đi vội vã.

Có ai đấy chạy đến bên một người phụ nữ
Người này em không quen
Nhưng người phụ nữ nhận ra người đàn ông
Chỉ trong khoảnh khắc.

Họ hôn nhau thắm thiết
Không bằng nụ hôn của chúng mình
Và chiếc va li bị lấy cắp
Không phải là chiếc va li của em.

Nhà ga thành phố N
Đã trả thi rất giỏi
Về sự tồn tại khách quan.

Cái chung vẫn còn nguyên vẹn
Cái riêng đã hoàn thành
Theo như số trời định sẵn.

Và ngay cả lần hò hẹn
Cũng đã định trước rồi.

Nhưng, than ôi
Sau khi chúng mình có mặt.

Và thiên đường đã mất
Giống như chân lý cuộc đời.

Ở đâu, chứ không phải ở đây
Ở đâu, chứ không phải ở đây
Vang lên những lời thánh thót.  

Dworzec
 
Nieprzyjazd mój do miasta N.
odbył się punktualnie.
 
Zostałeś uprzedzony
niewysłanym listem.
 
Zdążyłeś nie przyjść
w przewidzianej porze.
 
Pociąg wjechał na peron trzeci.
Wysiadło dużo ludzi.
 
Uchodził w tłumie do wyjścia
brak mojej osoby.
 
Kilka kobiet zastąpiło mnie
pośpiesznie
w tym pośpiechu.
 
Do jednej podbiegł
ktoś nie znany mi,
ale ona rozpoznała go
natychmiast.
 
Oboje wymienili
nie nasz pocałunek,
podczas czego zginęła
nie moja walizka.
 
Dworzec w mieście N.
dobrze zdał egzamin
z istnienia obiektywnego.
 
Całość stała na swoim miejscu.
Szczegóły poruszały się
po wyznaczonych torach.
 
Odbyło sie nawet
umówione spotkanie.
 
Poza zasięgiem
naszej obecności.
 
W raju utraconym
prawdopodobieństwa.
 
Gdzie indziej.
Gdzie indziej.
Jak te słówka dźwięczą.
  


BẠN CỞI, CHÚNG TÔI CỞI, NGƯỜI TA CŨNG CỞI
(Quần áo)
 
Bạn cởi, chúng tôi cởi, người ta cũng cởi
áo khoác, bành tô, áo cánh, áo hai dây
làm bằng len, bông, bông với polyester
quần tây, áo sơ mi, quần lọt khe, áo váy
đặt xuống, treo lên hoặc ném chúng qua
lưng ghế bành, cánh rèm bằng kim loại
hiện tại bác sĩ nói rằng nó không quá tệ
có thể mặc áo quần, nghỉ ngơi, ra ngoại ô
uống viên thuốc trước khi ngủ, sau ăn trưa
rồi trở lại sau vài tháng, một năm, năm rưỡi
bạn thấy, bạn nghĩ và chúng tôi cũng sợ
bạn thì đoán, còn bác sĩ nghi ngờ rằng
đã đến lúc cần buộc mà tay vẫn còn run
thắt dây giày, móc treo, khóa cài, khóa kéo
dây thắt lưng, cà vạt, móc cài khuy, cổ áo
và kéo ra khỏi túi quần, tay áo, túi xách tay
chiếc khăn quàng nhàu nát, chấm sọc, kẻ ca rô
mà thời hạn sử dụng của nó kéo dài rất đáng nể.

Odzież
 
Zdejmujesz, zdejmujemy, zdejmujecie
płaszcze, żakiety, marynarki, bluzki
z wełny, bawełny, elanobawełny,
spódnice, spodnie, skarpetki, bieliznę,
kładąc, wieszając, przerzucając przez
oparcia krzeseł, skrzydła parawanów;
na razie, mówi lekarz, to nic poważnego,
proszę się ubrać, odpocząć, wyjechać,
zażywać w razie gdyby, przed snem, po jedzeniu,
pokazać się za kwartał, za rok, za półtora;
widzisz, a ty myślałeś, a myśmy się bali,
a wyście przypuszczali, a on podejrzewał;
czas już wiązać, zapinać drżącymi jeszcze rękami
sznurowadła, zatrzaski, suwaki, klamerki,
paski, guziki, krawaty, kołnierze
i wyciągać z rękawów, z torebek, z kieszeni
wymięty, w kropki, w paski, w kwiatki, w kratkę szalik
o przedłużonej nagle przydatności.

Clothes

You take off, we take off, they take off
coats, jackets, blouses, double-breasted suits,
made of wool, cotton, cotton-polyester,
skirts, shirts, underwear, slacks, slips, socks,
putting, hanging, tossing them across
the back of chairs, the wings of metal screens;
for now, the doctor says, it’s not too bad,
you may get dressed, get rested up, get out of town,
take one in case, at bedtime, after lunch,
show up in a couple of months, next spring, next year;
you see, and you thought, and we were afraid that,
and he imagined, and you all believed;
it’s time to tie, to fasten with shaking hands
shoelaces, buckles, velcro, zippers, snaps,
belts, buttons, cuff links, collars, neckties, clasps
and to pull out of handbags, pockets, sleeves
a crumpled, dotted, flowered, checkered scarf
whose usefulness has suddenly been prolonged.



TRƯỜNG HỢP BẤT KỲ

Đã xảy ra điều có thể
Đã xảy ra điều phải xảy ra.
Sớm hơn. Muộn màng hơn thế.
Gần hơn. Xa hơn.
Đã xảy ra – nhưng không phải với anh.

Còn nguyên vẹn, bởi anh người đầu tiên.
Còn nguyên vẹn, bởi anh người sau cuối.
Bởi do mọi người. Bởi anh tự mình
Bởi vì bên phải. Bởi vì bên trái
Bởi vì bóng rơi. Bởi vì mưa xối
Và bởi vì nắng đẹp, trời xanh.

Thật may mắn, ở đó là rừng
Thật may mắn, không một thân cây gỗ
Thật may mắn, khe núi, đường ray, sự cách trở
Milimét, phút giây và chỗ quay vòng
Thật may mắn, cọng rơm bơi trên nước.

Nhưng kết cục, thật khó mà nói được
Tuy thế, dù sao, giá mà tay, chân
Kẽ tóc chân tơ, theo mỗi bước chân
Tránh khỏi trùng phùng cơ hội.

Bởi thế, anh tồn tại?
Mang ơn mỗi phút giây
Lưới có một mắt. Còn anh ở trong mắt ấy
Em không lặng im và chẳng ngạc nhiên lắm vậy
Xin anh hãy nghe em
Để vì em
Con tim anh rộn ràng hãy đập.

Wszelki wypadek
 
Zdarzyć się mogło.
Zdarzyć się musiało.
Zdarzyło się wcześniej. Później. Bliżej. Dalej.
Zdarzyło się nie tobie.
 
Ocalałeś, bo byłeś pierwszy.
Ocalałeś, bo byłeś ostatni.
Bo sam. Bo ludzie. Bo w lewo. Bo w prawo.
Bo padał deszcz. Bo padał cień.
Bo panowała słoneczna pogoda.
 
Na szczęście był tam las.
Na szczęście nie było drzew.
Na szczęście szyna, hak, belka, hamulec,
Framuga, zakręt, milimetr, sekunda.
Na szczęście brzytw pływała po wodzie.
 
Wskutek, ponieważ, a jednak, pomimo.
Co było to było gdyby ręka, noga,
O krok, o włos
Od zbiegu okoliczności.
Więc jesteś?
Prosto z uchylonej jeszcze chwili?
Sieć jednooka, a ty przez to oko?
Nie umiem się nadziwić, namilczeć się temu.
Posłuchaj
Jak mi prędko bije twoje serce.
 
 


TÌNH YÊU TỪ CÁI NHÌN ĐẦU TIÊN

Cả hai người vẫn tin rằng
tình cảm của họ bất ngờ, đột ngột
lòng tin này rất đẹp
nhưng sự hoài nghi còn tuyệt vời hơn.

Họ cho rằng, nếu trước đó chưa từng quen
thì đã không có gì xảy ra với họ.
Thế sẽ nói gì những bậc thang, những hành lang, đường phố
những nơi mà họ gặp nhau không chỉ một lần?

Tôi muốn hỏi họ xem
liệu họ còn có nhớ
có thể, trong những vòng xoay cánh cửa
họ từng đối mặt ra sao?
Những lời “xin lỗi” khi va vào người nhau
giọng “anh nhầm rồi” trong ống nghe điện thoại
nhưng tôi biết câu trả lời như vậy.
Không, họ chẳng nhớ gì.

Mà họ sẽ ngạc nhiên nhiều hơn kia
khi biết rằng đã từ lâu lắm
với họ đang đùa giỡn
một trường hợp ngẫu nhiên.

Trường hợp này còn chưa sẵn sàng
trở thành số phận
xích họ lại gần, làm cho xa vắng
chạy qua đường, né sang bên
và tiếng cười khúc khích kìm nén.

Đã từng có những dấu hiệu
không quan trọng là đã chẳng hiểu ra
có thể từ ba năm trước kia
hay là, thứ ba tuần trước
khi từ vai này sang vai khác
một chiếc lá vương?
Một thứ gì người này làm rơi người khác nhặt lên
ai biết được, có thể là trái bóng
trong bụi cây từ thuở thiếu niên.

Đã có những chiếc chuông con và những tay cầm
mà ở đó rất lâu trước lần gặp gỡ
những dấu tay đã từng chồng lên.
Hai chiếc va li trong kho để kề bên.
Có thể, trong đêm có một giấc mơ giống hệt
khi thức giấc thì đã vội vàng quên.

Bởi vì mỗi sự mở đầu
chỉ là một hồi kế tiếp
và cuốn sách
của cuộc đời luôn mở giữa chừng trang.

Miłość od piewsego wejrzenia
 
Oboje są przekonani,
że połączyło ich uczucie nagłe.
Piękna jest taka pewność,
ale niepewność jest piękniejsza.
 
Sądzą, że skoro nie
znali się wcześniej,
nic miedy nimi nigdy się nie działo.
A co na to ulice, schody, korytarze,
na których mogli się od dawna mijać?
 
Chciałabym ich zapytać,
czy nie pamietają -
może w drzwiach obrotowych
kiedyś twarzą w twarz?
jakieś "przepraszam" w ścisku?
głos "pomyłka" w słuchawce?
- ale znam ich odpowiedź.
Nie, nie pamietają.
 
Bardzo by ich zdziwiło,
że od dłuższego już czasu
bawił się nimi przypadek.
 
Jeszcze nie całkiem gotów
zamienić się dla nich w los,
zbliżał ich i oddalał,
zabiegał im droge
i tłumiąc chichot
odskakiwał w bok.
 
Były znaki, sygnały,
cóż z tego, że nieczytelne.
Może trzy lata temu
albo w zeszły wtorek
pewien listek przefrunął
z ramienia na ramię?
Było coś zgubionego i podniesionego.
Kto wie, czy już nie piłka
w zaroślach dzieciństwa?
 
Były klamki i dzwonki,
na których zawczasu
dotyk kladł się na dotyk.
Walizki obok siebie w przechowalni.
Był może pewnej nocy jednakowy sen,
natychmiast po zbudzeniu zamazany.
 
Każdy przecież początek
to tylko ciąg dalszy,
a księga zdarzeń
zawsze otwarta w połowie.
  


TÌNH HẠNH PHÚC
 
Tình hạnh phúc. Có bình thường không vậy
Chẳng lẽ nghiêm túc, hay có ích điều này
Thế giới nhận được gì ở hai người
Khi mà họ không nhìn ra thế giới?
 
Họ tôn vinh nhau không phải vì công lao
Từ cả triệu người ngẫu nhiên được chọn
Nhưng họ tin rằng đấy là phần thưởng
Vì điều gì? Có ai biết được đâu.
 
Một tia sáng chẳng biết tự nơi nào
Sao không chiếu vào ai mà chiếu vào chính họ?
Đấy là điều bất công chăng? Hẳn thế
Không để ý gì đến dư luận xã hội chăng?
Vi phạm đạo đức, chối bỏ những điều răn?
Có vi phạm và có phần chối bỏ.
 
Quý vị hãy nhìn hai người hạnh phúc
Giá mà họ giả vờ, ngụy trang một chút
Giả vờ rầu rĩ để an ủi bạn bè
Tiếng của họ cười – nghe mà thấy bực
Lời họ nói với nhau – chẳng thể nào nghe.
Và những cử chỉ, lễ nghi của họ
Và những lời họ cam kết với nhau
Giống như một mưu đồ sau lưng nhân loại.
 
Thật khó đoán điều gì sẽ xảy ra
Nếu thiên hạ cũng noi theo gương họ
Thì còn gì cho tôn giáo, thơ ca
Còn gì để quên, còn gì để nhớ
Ai muốn giữ mình trong cái vòng kia?
 
Tình hạnh phúc. Liệu có cần thiết chăng?
Sự tế nhị và trí khôn buộc người ta im lặng
Như khi nói về những ông to tham nhũng
Trẻ nhỏ sinh ra đời có cần đến nó đâu
Nó đâu làm cho người đông đúc khắp địa cầu
Tình như thế là tình rất hiếm gặp.
 
Hãy để cho những ai chưa biết đến tình hạnh phúc
Tin tưởng rằng tình như thế không hề có trên đời
Và cảm thấy nhẹ nhàng hơn để sống và để chết.

Miłość szczęśliwa
 
Miłość szczęśliwa. Czy to jest normalne,
czy to poważne, czy to pożyteczne -
co świat ma z dwojga ludzi,
którzy nie widzą świata?
 
Wywyższeni ku sobie bez żadnej zasługi,
pierwsi lepsi z miliona, ale przekonani,
że tak stać się musiało - w nagrodę za co? za nic;
światło pada znikąd -
dlaczego właśnie na tych, a nie innych?
Czy to obraża sprawiedliwość? Tak.
Czy narusza troskliwie piętrzone zasady,
strąca ze szczytu morał? Narusza i strąca.
 
Spójrzcie na tych szczęśliwych:
gdyby się chociaż maskowali trochę,
udawali zgnębienie krzepiąc tym przyjaciół!
Słuchajcie, jak się śmieją - obraźliwie.
Jakim językiem mówią - zrozumiałym na pozór.
A te ich ceremonie, ceregiele,
Wymyślne obowiązki względem siebie -
wygląda to na zmowę za plecami ludzkości!
 
Trudno nawet przewidzieć, do czego by doszło,
gdyby ich przykład dał się naśladować.
Na co liczyć by mogły religie, poezje,
o czym by pamiętano, czego zaniechano,
kto by chciał zostać w kręgu.
 
Miłość szczęśliwa. Czy to jest konieczne?
Takt i rozsądek każą milczeć o niej
jak o skandalu z wysokich sfer Życia.
Wspaniałe dziatki rodzą się bez jej pomocy.
Przenigdy nie zdołałaby zaludnić ziemi,
zdarza się przecież rzadko.
 
Niech ludzie nie znający miłości szczęśliwej
twierdzą, że nigdzie nie ma miłości szczęśliwej
Z tą wiarą lżej im będzie i żyć, i umierać.
  


CÁM ƠN
 
Tôi mang ơn rất nhiều
với những người mà tôi không yêu.
 
Vì sự nhẹ nhàng mà tôi đón nhận
vốn chỉ dành cho người thân thương lắm.
 
Và tôi vui vì tôi chẳng trở thành
con sói giữa bầy cừu mà họ dắt chăn.
 
Bên họ tôi tự do
và cảm thấy bình an bên họ
mà tình yêu không thể trao điều đó
và tình yêu cũng không thể lấy về.
 
Tôi không chờ họ, khi chạy ra từ cửa sổ
tôi kiên nhẫn như đồng hồ mặt trời
tôi hiểu điều tình yêu không thể hiểu
và tôi tha thứ cho tất cả những điều
mà tình yêu không bao giờ tha thứ.
 
Từ khi gặp gỡ đến lúc nhận thư
thời gian đợi chờ không dài lắm
chỉ vài ngày, hoặc chưa đầy tháng.
 
Những chuyến đi với họ luôn mỹ mãn
những buổi nghe hòa nhạc, thăm bảo tàng
những giáo đường chúng tôi đã ghé thăm
và sau đó còn bao nhiêu danh thắng.
 
Rồi khi chúng tôi phải chia ly
bởi bảy dòng sông, mười ngọn núi
thì những ngọn núi, dòng sông như vậy
luôn dễ dàng tìm thấy trên bản đồ.
 
Công lao của họ
là tôi được sống trong không gian ba chiều
không cần trữ tình, không cần cường điệu
mà với chân trời thực – luôn đổi thay.
 
Và họ cũng không biết được điều này
họ có được gì khi trắng đôi tay.
 
“Tôi không nợ nần gì với họ” –
có lẽ tình yêu sẽ nói điều này
cho cái đề tài còn bỏ ngỏ.

Podziękowanie
 
Wiele zawdzięczam
tym, których nie kocham.
 
Ulgę, z jaką się godzę,
że bliżsi są komu innemu.
 
Radość, że nie ja jestem
wilkiem ich owieczek.
 
Pokój mi z nimi
i wolność mi z nimi,
a tego miłość ani dać nie może,
ani brać nie potrafi.
 
Nie czekam na nich
od okna do drzwi.
Cierpliwa
prawie jak słoneczny zegar,
rozumiem
czego miłość nie rozumie
wybaczam,
czego miłość nie wybaczyłaby nigdy.
 
Od spotkania do listu
nie wieczność upływa,
ale po prostu kilka dni albo tygodni.
 
Podróże z nimi zawsze są udane,
koncerty wysłuchane,
katedry zwiedzone,
krajobrazy wyraźne.
 
A kiedy nas rozdziela
siedem gór i rzek,
są to góry i rzeki
dobrze znane z mapy.
 
Ich zasługą,
jeżeli żyję w trzech wymiarach,
w przestrzeni nielirycznej i nieretorycznej
z prawdziwym, bo ruchomym horyzontem.
 
Sami nie wiedzą,
ile niosą w rękach pustych.
 
"Nic im nie jestem winna" -
powiedziałaby miłość
na ten otwarty temat.
  


NHỮNG NGƯỜI TRÊN CẦU
 
Những con người lạ lùng ở hành tinh lạ lùng kia
Họ lệ thuộc thời gian nhưng mà không thừa nhận
Và họ có những cách bày tỏ điều phản kháng
Họ vẽ những bức tranh, ví dụ bức tranh này:
 
Mới nhìn qua, có vẻ chẳng có gì
Bạn nhìn thấy dòng sông có nước đầy
Và thấy một bờ của dòng sông ấy
Một chiếc thuyền bơi ngược dòng nước chảy
Thấy cầu trên sông, thấy người ở trên cầu
Và những người này có vẻ như đang vội
Bởi vì họ nhìn từ những đám mây
Báo hiệu một cơn mưa rào đang tới.
 
Điều đáng nói là mọi hành động đang ngừng lại
Mây không hề đổi thay hình dạng, sắc màu
Mưa không dứt mà cũng chẳng rơi mau
Chiếc thuyền bơi mà dường như đứng lại
Còn trên cầu những con người đang chạy
Y hệt những người đã chạy trước đây.
 
Không thể không bình luận bức tranh này:
Đây không phải bức tranh không có lỗi
Bởi thời gian bị làm cho ngừng lại
Không tuân theo những qui luật của đời
Diễn biến của tiến trình bị làm cho thay đổi
Dòng thời gian bị xúc phạm ở đây.
 
Do một kẻ nổi loạn nào đó
Có tên là Hiroshige Utagawa*
(Người mà, quả thật là
Đã từ lâu yên nghỉ)
Và thời gian đã sẩy chân rơi.
 
Có thể đấy chỉ là trò đùa cợt mà thôi
Trong phạm vi thiên hà chỉ một vài
Nhưng mà để đề phòng trong mọi chuyện
Ta sẽ thêm vào đấy một đôi lời:
 
Bức tranh này được đánh giá tuyệt vời
Được người đời trầm trồ và ngưỡng mộ
Từ thế hệ này truyền qua bao thế hệ.
 
Một số người, điều này còn ít ỏi
Mà họ còn nghe cả tiếng mưa giông
Cảm nhận cái lạnh cả trên cổ, trên lưng
Thấy cây cầu và những người trên đấy
Tựa hồ như nhìn thấy mình đang chạy
Theo con đường đi vào cõi vĩnh hằng
Và họ tin tưởng dường như tuyệt đối
Rằng đấy là điều sự thật hiển nhiên.
___________

*Utagawa Hiroshige (sáng tác với bút danh Andō Hiroshige, 1797 – 1858) – là một trong những họa sỹ bậc thầy của dòng tranh truyền thống Ukiyo-e của Nhật Bản nổi tiếng thế giới.

Ludzie na moście
 
Dziwna planeta i dziwni na niej ludzie.
Ulegają czasowi, ale nie chcą go uznać.
Mają sposoby, żeby swój sprzeciw wyrazić.
Robią obrazki jak na przykład ten:
 
Nic szczególnego na pierwszy rzut oka.
Widać wodę.
Widać jeden z jej brzegów.
Widać czółno mozolnie płynące pod prąd.
Widać nad wodą most i widać ludzi na moście.
Ludzie wyraźnie przyśpieszają kroku,
bo właśnie z ciemnej chmury
zaczął deszcz ostro zacinać.
 
Cała rzecz w tym, że nic nie dzieje się dalej.
Chmura nie zmienia barwy ani kształtu.
Deszcz ani się nie wzmaga, ani nie ustaje.
Czółno płynie bez ruchu.
Ludzie na moście biegną
ściśle tam, co przed chwilą.
 
Trudno tu obejść się bez komentarza:
To nie jest wcale obrazek niewinny.
Zatrzymano tu czas.
Przestano liczyć się z prawami jego.
Pozbawiono go wpływu na rozwój wypadków.
Zlekceważono go i znieważono.
 
Za sprawą buntownika
jakiegoś Hiroshige Utagawy,
(istoty, która zresztą
dawno i jak należy minęła),
czas potknął się i upadł.
 
Może to tylko psota bez znaczenia,
wybryk na skalę paru zaledwie galaktyk,
na wszelki jednak wypadek
dodajmy, co następuje:
 
Bywa tu w dobrym tonie
wysoko sobie cenić ten obrazek,
zachwycać się nim i wzruszać od pokoleń.
 
Są tacy, którym i to nie wystarcza.
Słyszą nawet szum deszczu,
czują chłód kropel na karkach i plecach,
patrzą na most i ludzi,
jakby widzieli tam siebie,
w tym samym biegu nigdy nie dobiegającym
drogą bez końca, wiecznie do odbycia
i wierzą w swoim zuchwalstwie,
że tak jest rzeczywiście.
  


NHỮNG ĐỨA CON THỜI ĐẠI
 
Tất cả chúng ta là những đứa con
của thời đại chính trị
 
Tất cả việc làm, của bạn,của tôi
việc vào ban ngày, việc vào buổi tối
đều là chính trị đấy thôi.
 
Dù bạn muốn hay không
trong gien của ta vẫn còn quá khứ
da cũng mang màu sắc chính trị
cả trong con mắt chính trị cũng ngời lên.
 
Dù bạn nói lời hay bạn lặng im
thì sự im lặng cũng mang ý nghĩa
thế này thế kia đều là chính trị.
 
Ngay cả khi bạn đi trong rừng
bạn cũng đi bằng bước chân chính trị
lấy chính trị làm căn nguyên.
 
Thơ phi chính trị cũng là chính trị
vầng trăng kia tỏa sáng giữa trời xanh
nhưng đối tượng không còn là mặt trăng.
Tồn tại hay không tồn tại – đó là câu hỏi.
Bạn thân yêu, bạn hãy trả lời xem
câu hỏi mang màu sắc chính trị.
 
Thậm chí không cần phải làm người
để đạt được tầm quan trọng về chính trị.
Mà chỉ cần là dầu mỏ
đồ tái chế hoặc là thức ăn tinh. 
Hoặc làm chiếc bàn hội nghị
có hình tròn hoặc hình vuông
nơi người ta tranh luận suốt tháng năm
hay người ta đàm phán
về sự chết và sự sống.
 
Trong khi đó thì con người vẫn lìa trần
súc vật vẫn chết nhiều như thế
những ngôi nhà vẫn chìm trong lửa
đồng ruộng vẫn bỏ hoang
giống như cái thuở nào đó xa xăm
có ai cần gì chính trị.

Dzieci epoki
 
Jesteśmy dziećmi epoki,
epoka jest polityczna.
 
Wszystkie twoje, nasze, wasze
dzienne sprawy, nocne sprawy
to są sprawy polityczne.
 
Chcesz czy nie chcesz,
twoje geny mają przyszłość polityczną,
skóra odcień polityczny,
oczy aspekt polityczny.
 
O czym mówisz, ma rezonans,
o czym milczysz, ma wzmowę
tak czy owak polityczną.
 
Nawet idąc borem lasem
stawiasz kroki polityczne
na podłożu politycznym.
 
Wiersze apolityczne też są polityczne,
a w górze świeci księżyc,
obiekt już nie księżycowy.
Być albo nie być, oto jest pytanie.
Jakie pytanie, odpowiedz kochanie.
Pytanie polityczne.
 
Nie musisz nawet być istotą ludzką,
by zyskać na znaczeniu politycznym.
Wystarczy, żebyś był ropą naftową,
paszą treściwą czy surowcem wtórnym.
Albo I stołem obrad, o którego kształt
spierano się miesiącami
przy jakim pertraktować o życiu i śmierci, 
okrągłym czy kwadratowym.
 
Tymczasem ginęli ludzie,
zdychały zwierzęta,
płonęły domy
i dziczały pola
jak w epokach zamierzchłych
i mniej politycznych.
  


ẢNH CHỤP NGÀY 11 THÁNG 9
 
Họ nhảy xuống từ những tầng nhà rực lửa
Một người, hai người và bao người nữa
Cao hơn, thấp hơn.
 
Tấm ảnh ghi lại họ khi còn sống
Còn bây giờ giữ gìn
Khi họ rơi xuống mặt đất bằng.
 
Mỗi người trong số họ vẫn nguyên
Với gương mặt của mình
Được che bằng máu.
 
Thời gian hãy còn đủ
Để cho tóc họ bay
Và để từ những chiếc túi rơi
Những chìa khóa, những đồng tiền lẻ.
 
Họ vẫn còn lơ lửng trong không khí
Trong giới hạn của khoảng không
Cho họ đã mở toang.
 
Chỉ hai điều cho họ tôi có thể làm
Là mô tả chuyến bay của họ
Và không viết thêm câu cuối cùng.

Fotografia z 11 września
 
Skoczyli z płonących pięter w dół -
jeden, dwóch, jeszcze kilku
wyżej, niżej.
 
Fotografia powstrzymała ich przy życiu,
a teraz przechowuje
nad ziemią ku ziemi.
 
Każdy to jeszcze całość
z osobistą twarzą
i krwią dobrze ukrytą.
 
Jest dosyć czasu,
żeby rozwiały się włosy,
a z kieszeni wypadły
klucze, drobne pieniądze.
 
Są ciągle jeszcze w zasięgu powietrza,
w obrębie miejsc,
które się właśnie otwarły.
 
Tylko dwie rzeczy mogę dla nich zrobić -
opisać ten lot
i nie dodawać ostatniego zdania.
 


BỐN GIỜ SÁNG

Thời khắc từ đêm sang ngày
Thời khắc trở mình trằn trọc
Thời khắc của tuổi ba mươi.

Thời khắc, khi đất đai chối bỏ con người
Thời khắc bật lên trong giờ gà gáy
Thời khắc, khi ngôi sao tắt ngấm giữa trời
Thời khắc, thế sau ta có những gì còn lại?

Thời khắc lặng im
Thời khắc trống vắng
Tận cùng đáy của ngày đêm.

Lúc bốn giờ sáng chẳng có ai bình yên
Nếu bầy kiến lúc bốn giờ thanh thản
Ta mừng cho kiến. Và năm giờ sẽ đến
Nếu như ta sống tiếp cuộc đời mình.

Czwarta nad ranem
 
Godzina z nocy na dzień.
Godzina z boku na bok.
Godzina dla trzydziestoletnich.
 
Godzina uprzątnięta pod kogutów pianie.
Godzina, kiedy ziemia zapiera nas.
Godzina, kiedy wieje od wygasłych gwiazd.
Godzina a-czy-po-nas-nic-nie-pozostanie.
 
Godzina pusta.
Głucha, czcza.
Dno wszystkich innych godzin.
 
Nikomu nie jest dobrze o czwartej nad ranem.
Jeśli mrówkom jest dobrze o czwartej nad ranem
- pogratulujmy mrówkom. I niech przyjdzie piąta,
o ile mamy dalej żyć.




AI ĐÓ YÊU THƠ
 
Ai đó –
có nghĩa: không mọi người.
Không phải nhiều, mà là thiểu số.
Ngoại trừ những em trò nhỏ
và các nhà thi sĩ
trong nghìn người, may ra chỉ có hai.

Yêu –
như người đời yêu khoai tây với nấm
những lời khen, những sắc thái của hoàng hôn
với chiếc khăn nhỏ của mình
đứng trên chỗ của mình
trước khi đi ngủ dẫn ra đường con chó lớn.

Thơ –
thơ ca là gì thế?
Bao nhiêu câu trả lời
tôi từng nghe được về điều này.
Cũng may: chúng đều lời nhẹ
bởi nếu không, sao tôi viết những dòng này.

Niektory lubią poezję
 
Niektórzy -
czyli nie wszyscy.
Nawet nie większość wszystkich ale mniejszość.
Nie licząc szkół, gdzie się musi,
i samych poetów,
będzie tych osób chyba dwie na tysiąc.
 
Lubią -
ale lubi się także rosół z makaronem,
lubi się komplementy i kolor niebieski,
lubi się stary szalik,
lubi się stawiać na swoim,
lubi się głaskać psa.
 
Poezję -
Tylko co to takiego poezja.
Niejedna chwiejna odpowiedź
na to pytanie już padła.
A ja nie wiem i nie wiem i trzymam się tego
Jak zbawiennej poręczy.


BA LỜI KỲ LẠ

Khi tôi phát âm từ “tương lai
Thì âm tiết đầu đã vào quá khứ.

Khi tôi phát âm từ “lặng lẽ
Thì tôi tự mình đã phá nó đi.


Tôi cẩn thận nói lời “không có gì
Thì có một cái gì bao la hiện rõ…


Trzy słowa najdziwniejsze
 
Kiedy wymawiam słowo Przyszłość,
pierwsza sylaba odchodzi już do przeszłości.
 
Kiedy wymawiam słowo Cisza,
niszczę ją.
 
Kiedy wymawiam słowo Nic,
stwarzam co, co nie mieści się w żadnym niebycie