Thứ Tư, 21 tháng 12, 2016

Giorgos Seferis - Giải Nobel Văn học năm 1963


Giorgos Seferis (1900-1971) tên thật là Giorgos Stilianu Seferiadis - nhà thơ, nhà ngoại giao Hy Lạp, giải Nobel Văn học năm 1963.

Sinh ngày 19-2-1900 tại Smyrna (nay là Thổ Nhĩ Kỳ). Lên 14 tuổi theo gia đình chuyển về Athen, năm 1918 theo bố sang Paris. Năm 1922 quân đội Thổ Nhĩ Kỳ chiếm Smyrna, người Hy Lạp từ giã vùng đất họ đã sống 2000 năm. Seferis học luật và say mê văn chương, làm việc tại Bộ ngoại giao Hoàng gia Hy Lạp. Trong thế chiến II Hy Lạp bị Đức chiếm đóng, Giorgos Seferis cùng chính phủ Hy Lạp sống lưu vong ở nước ngoài.

Sau chiến tranh, G. Seferis tiếp tục làm việc ở Bộ Ngoại giao Hy Lạp, giữ các trọng trách ở Ankara (1948 - 1950), London (1951 - 1953), Lebanon, Syria, Jordan và Iraq (1953 - 1956) và là Đại sứ Hoàng gia Hy Lạp ở Anh từ năm 1957 tới 1961. Ông nhận được rất nhiều bằng danh dự và giải thưởng, trong đó có bằng Tiến sĩ danh dự của các trường đại học Cambridge (1960), Oxford (1964), Salonika (1964) và Princeton (1965).

Tập thơ đầu tiên Điểm ngoặt (Strofi, 1931) chỉ in 150 bản, tên sách trong nguyên tác vừa có nghĩa "Khổ thơ", vừa có nghĩa "Điểm ngoặt", tượng trưng cho một bước chuyển mới trong thơ Hy Lạp. Tiếp đó là tập thơ trữ tình theo chủ nghĩa tượng trưng Cái bể nước (1932) đề cập đến những ước mơ trong sâu thẳm tâm hồn con người, những ước mơ bị quên lãng trong cuộc sống ngày thường. Trong những tác phẩm sau này, G. Seferis nói nhiều đến sự hiện hữu của quá khứ trong hiện tại, bắt đầu bằng Thần thoại (1935). Ngoài các tác phẩm thơ, năm 1962 ông xuất bản tập Tiểu luận, và năm 1965 là tuyển tập dịch thơ của các nhà thơ Anh, Pháp, Mỹ mang tên Bản sao. Sáng tác thơ của G.Seferis giai đoạn 1924 - 1955 được in cả ở Hy Lạp và Mỹ.

Thơ của Seferis về những đề tài như: cái chết, sự mất mát và hỗn mang. Nhân vật trong thơ ông thường là những người lãng du muôn thuở buồn nhớ về thiên đường đã mất. Năm 1963 ông được trao giải Nobel Văn học “vì những tác phẩm thơ trữ tình xuất sắc”. Giorgos Seferis mất tại Athen ngày 20-9-1971.



Tác phẩm:
- Điểm ngoặt (Στροφήi, 1931), thơ
- Cái bể nước (Στέρνα, 1932), thơ
- Thần thoại (Μυθιστόρημα, 1935), thơ
- Cuốn sách bài tập (Τετράδιο Γυμνασμάτων, 1940), thơ
- Nhật kí hải trình I (Ημερολόγιο Καταστρώματος I, 1940), thơ
- Nhật kí hải trình II (Ημερολόγιο Καταστρώματος II, 1944), thơ
- Xô đẩy (Κίχλη, 1947), thơ
- Nhật kí hải trình III (Ημερολόγιο Καταστρώματος III, 1955), thơ
- Ba bài thơ bí mật (Τρία Κρυφά Ποιήματα, 1966), thơ
- Tiểu luận (Δοκιμές, 1962), tiểu luận
- Bản sao (Αντιγραφές, 1965), thơ dịch
- Cuốn sách bài tập II (Τετράδιο Γυμνασμάτων II, 1976), thơ



HÊLEN

TEUCER: … để giành được đảo Síp, Apollo ra lệnh
xây dựng ở đó thành phố lấy theo tên của
thành phố Salamis quê hương.
.............
..................................... ...........................
HELEN: Tôi chưa đến Tơ-roa, đấy chỉ là bóng ma.

.................................................. ...........................

NGƯỜI ĐẦY TỚ: Cái gì? Tất cả đau đớn chỉ là một bóng ma.
(Euripedes, Helen)


“Ở Platres chim họa mi không cho bạn ngủ”

Những chú họa mi ẩn trong lá thì thầm
Chim đem sự mát mẻ vang vọng cho rừng
Đem cho thể xác và cho cả linh hồn
Của những ai tin rằng không còn quay lại nữa.
Giọng điếc đặc, dò dẫm trong trí nhớ
Những bước chân, không dám gọi “nụ hôn”
Trong cơn giận của người nô lệ nữ.

“Ở Platres chim họa mi không cho bạn ngủ”

Platres ở đâu? Ai biết những đảo này?
Tôi cả đời chưa từng nghe tên gọi ấy:
Thành phố mới và sự điên cuồng mới
Của con người và của cả thánh thần
Số phận tôi rung lên
Giữa thanh kiếm chết người của Ajax
Và người nào đấy có tên là Salamis
Đã đưa tôi đến bờ biển này đây.
Vầng trăng
Nhô lên từ biển như nữ thần Aphrodite
Vầng trăng ơi, vầng trăng che khuất
Chòm Nhân Mã, và hướng về Hồ Cáp
Tất cả đổi thay. Ở đâu sự thật?
Tôi cũng là một cung thủ trong chiến tranh
Số phận tôi là số phận người có mũi tên đi lạc.

Ôi họa mi, như người hát
Trong cái đêm trên bờ biển Proteus
Những nô lệ Spartan nghe đến mê say
Rồi họ khóc, Helen cũng trong số này!
Đấy là người mà ta tìm khắp Scamander năm ấy
Nàng ở gần sa mạc. Và khi tôi đến đấy
Nàng kêu lên: “Tất cả đều nói dối
Ta chưa từng bước lên con tàu xanh
Chưa từng đến Tơ-roa thuở chiến tranh!”

Ngực nhô cao và nắng trên mái tóc
Một thân hình cao
Bóng và nụ cười ở khắp mọi nơi
Trên vai, trên đầu gối, trên đùi
Làn da trắng mịn màng và đôi mắt
Có bờ mi dài.
Nàng ở nơi bến bờ xa lắc.
Thế còn ở Tơ-roa?
Ở Tơ-roa chỉ có bóng ma.
Paris nằm trên giường với bóng
Tựa như ôm con người sống động
Thế mà trong suốt mười năm
Chúng ta chém giết nhau và chết vì Helen.

Ôi Hy Lạp đau thương
Bao nhiêu máu xương người đổ xuống
Trên ruộng đồng, trên biển
Bao nhiêu linh hồn
Như trong cối xay lúa
Đầu rơi máu chảy thành sông
Vì một điều gì đấy trống không
Hay vì loài bướm
Vì cái gì trống rỗng, vì Helen.
Đâu rồi người anh em của tôi?
Chim họa mi, họa mi đâu rồi
Đâu là Thần, đâu không phải Thần, điều gì ở giữa?

“Ở Platres chim họa mi không cho bạn ngủ”

Con chim buồn thương
Bay về đảo Síp dạt dào sóng vỗ
Gợi cho tôi một nỗi nhớ quê hương
Và tôi hòa mình vào câu chuyện cổ
Nếu đó là sự thật và những đồng hương
Sẽ không còn rơi vào bẫy của thánh thần
Của những câu chuyện cổ
Nếu đó là sự thật và sau nhiều năm
Sẽ có một Teucer nào đó
Hoặc một Ajax, Hecuba, một Priam
Hoặc một người nào không tuổi không tên
Mà người này đã từng
Thấy Scamander xác người chất đống
Và khi người ta mang tin đến
Rằng bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu cuộc đời
Đã rơi vào vực thẳm
Chỉ vì một cái gì trống rỗng, một Helen.
_________
*Bài thơ dựa trên câu chuyện rút ​​từ bi kịch “Helen” của Euripides. Teucer, em trai của Ajax, là một cung thủ xuất sắc trong trận Tơ-roa nhưng Telamon, cha của Ajax và Teucer, thất vọng trước cái chết của một người con trai (Ajax, không thể  chịu nổi cảnh tòa đã không xử cho ông được hưởng chiến lợi phẩm của Achilles mà đã trao cho Odysseus, trở nên điên rồ và giết hết bầy cừu của dân Achaea, nghĩ rằng giết các nhà lãnh đạo, đến khi bình tĩnh lại, không thể chịu được sự xấu hổ đã tự tử bằng cách gieo mình vào thanh kiếm của mình). Telamon đã đuổi Teucer đi lưu đày. Apollo ra lệnh cho Teucer đi đến Síp và thành lập một thành phố, gọi theo tên thành phố quê hương là Salamis. Trên đường đến Síp Teucer đi lạc sang Ai Cập, ở vùng đồng bằng sông Nile, nơi đã từng sống Proteus (mà nhiều thế kỷ sau đó sẽ lập nên thành phố Alexandria) - Homer coi Proteus là thần biển, Euripides gọi ông là một vị vua khôn ngoan và tĩnh lặng, các vị thần đã mang Helen sang giấu ở đấy trong suốt cuộc chiến Tơ-roa. Teucer gặp Helen và biết rằng ở Troa chỉ có bóng ma của nàng. Tất cả những tên riêng khác đều là những nhân vật rất nổi tiếng trong Thần thoại Hy Lạp nên chúng tôi không chú thích ở đây.



ΕΛΕΝΗ


ΤΕΥΚΡΟΣ ... ες γην εναλίαν Κύπρον ου μ' εθέσπισεν

οικείν Απόλλων, όνομα νησιωτικόν
Σαλαμίνα θέμενον της εκεί χάριν πάτρας.
..............................................................
ΕΛΕΝΗ: Ουκ ήλθον ες γην Τρωάδ' , αλλ' είδωλον ήν.
.............................................................
ΑΓΓΕΛΟΣ: Τι φής;
Νεφέλης άρ' άλλως είχομεν πόνους πέρι;

ΕΥΡΙΠΙΔΗΣ,ΕΛΕΝΗ


"Τ' αηδόνια δε σ' αφήνουνε να κοιμηθείς στις Πλάτρες''.


Αηδόνι ντροπαλό, μες στον ανασασμό των φύλλων,

σύ που δωρίζεις τη μουσική δροσιά του δάσους
στα χωρισμένα σώματα και στις ψυχές
αυτών που ξέρουν πως δε θα γυρίσουν.
Τυφλή φωνή, που ψηλαφείς μέσα στη νυχτωμένη μνήμη
βήματα και χειρονομίες. δε θα τολμούσα να πω φιλήματα.
και το πικρό τρικύμισμα της ξαγριεμένης σκλάβας.

"Τ' αηδόνια δε σ' αφήνουνε να κοιμηθείς στις Πλάτρες".


Ποιες είναι οι Πλάτρες; Ποιος το γνωρίζει τούτο το νησί;

Έζησα τη ζωή μου ακούγοντας ονόματα πρωτάκουστα:
καινούργιους τόπους, καινούργιες τρέλες των ανθρώπων
ή των θεών.
η μοίρα μου που κυματίζει
ανάμεσα στο στερνό σπαθί ενός Αίαντα
και μιαν άλλη Σαλαμίνα
μ' έφερε εδώ σ' αυτό το γυρογιάλι.
Το φεγγάρι
βγήκε απ' το πέλαγο σαν Αφροδίτη.
σκέπασε τ' άστρα του Τοξότη, τώρα πάει να 'βρει
την καρδιά του Σκορπιού, κι όλα τ' αλλάζει.
Πού είναι η αλήθεια;
Ήμουν κι εγώ στον πόλεμο τοξότης.
το ριζικό μου, ενός ανθρώπου που ξαστόχησε.

Αηδόνι ποιητάρη,

σαν και μια τέτοια νύχτα στ' ακροθαλάσσι του Πρωτέα
σ' άκουσαν οι σκλάβες Σπαρτιάτισσες κι έσυραν το θρήνο,
κι ανάμεσό τους-ποιος θα το 'λεγε-η Ελένη!
Αυτή που κυνηγούσαμε χρόνια στο Σκάμαντρο.
Ήταν εκεί, στα χείλια της ερήμου. την άγγιξα, μου μίλησε:
"Δεν είν' αλήθεια, δεν είν' αλήθεια" φώναζε.
"Δεν μπήκα στο γαλαζόπλωρο καράβι.
Ποτέ δεν πάτησα την αντρειωμένη Τροία".

Με το βαθύ στηθόδεσμο, τον ήλιο στα μαλλιά, κι αυτό

το ανάστημα
ίσκιοι και χαμόγελα παντού
στους ώμους στους μηρούς στα γόνατα.
ζωντανό δέρμα, και τα μάτια
με τα μεγάλα βλέφαρα,
ήταν εκεί, στην όχθη ενός Δέλτα.
Και στην Τροία;
Τίποτε στην Τροία-ένα είδωλο.
Έτσι το θέλαν οι θεοί.
Κι ο Πάρης, μ' έναν ίσκιο πλάγιαζε σα να ήταν πλάσμα
ατόφιο.
κι εμείς σφαζόμασταν για την Ελένη δέκα χρόνια .

Μεγάλος πόνος είχε πέσει στην Ελλάδα.

Τόσα κορμιά ριγμένα
στα σαγόνια της θάλασσας στα σαγόνια της γης.
τόσες ψυχές
δοσμένες στις μυλόπετρες, σαν το σιτάρι.
Κι οι ποταμοί φουσκώναν μες στη λάσπη το αίμα
για ένα λινό κυμάτισμα για μια νεφέλη
μιας πεταλούδας τίναγμα το πούπουλο ενός κύκνου
για ένα πουκάμισο αδειανό, για μιαν Ελένη.
Κι ο αδερφός μου;
Αηδόνι αηδόνι αηδόνι,
τ' είναι θεός; τι μη θεός; και τι τ' ανάμεσό τους;

"Τ' αηδόνια δε σ' αφήνουνε να κοιμηθείς στις Πλάτρες".


Δακρυσμένο πουλί,

στην Κύπρο τη θαλασσοφίλητη
που έταξαν για να μου θυμίζει την πατρίδα,
άραξα μοναχός μ' αυτό το παραμύθι,
αν είναι αλήθεια πως αυτό είναι παραμύθι,
αν είναι αλήθεια πως οι άνθρωποι Δε θα ξαναπιάσουν
τον παλιό δόλο των θεών.
αν είναι αλήθεια

πως κάποιος άλλος Τεύκρος, ύστερα από χρόνια,

ή κάποιος Αίαντας ή Πρίαμος ή Εκάβη
ή κάποιος άγνωστος, ανώνυμος που ωστόσο
είδε ένα Σκάμαντρο να ξεχειλάει κουφάρια,
δεν το 'χει μες στη μοίρα του ν' ακούσει
μαντατοφόρους που έρχουνται να πούνε
πως τόσος πόνος τόση ζωή
πήγαν στην άβυσσο
για ένα πουκάμισο αδειανό για μιαν Ελένη.



MÀN SƯƠNG(1)

“Say it with a Ukulele…”

“Hãy hát lên đàn Ukulele…”
Từ máy hát vang lên lời hát cũ
Em yêu ơi, anh biết hát bài gì
Để cho em hiểu rằng anh buồn bã.

Kẻ hành khất chơi cây đàn phong cầm
Tay chạm lên phím đàn rất cẩn trọng –
Hãy đi xuống đây những thiên thần
Nhưng thiên thần ngồi khóc trong lo lắng.

Thiên thần đã sẵn sàng đi
Nhưng mặt đất mây che kín
Ta nghèo khó đến ngày cuối tận
Bởi thiên thần quên đến với ta.

Cuộc đời ta lạnh lùng như biển
Sống ra sao ư? Như ở trong sương
Chìm đắm những linh hồn
Như đá chìm trong biển.

Cây run rẩy tựa san hô
Màu xanh trở thành màu xám
Đang ngủ yên những chiếc xe thồ
Từ lâu trên mặt đất quên lãng.

“Hãy hát lên đàn Ukulele…”
Lời ca không còn sức mạnh nữa
Tình yêu ơi, đâu ngôi đền của em muôn thuở?
Sao nơi này ta lạnh lẽo nhường kia!

Giá mà cuộc đời đi theo đường thẳng
Anh và em không biết đến ưu phiền
Nhưng trò chơi số phận
Bước ngoặt trong đời thay đổi triền miên.

Đợi đến khi nào? Không ai biết
Lửa cháy lên trong sương khói hoàng hôn
Trong màn sương ta đánh mất con đường
Giữa hai ngọn lửa tâm hồn đau thắt.

Số kiếp ta. Đâu hạnh phúc chúng mình
Ngày chết dần trong vương quốc đêm tối
Xung quanh bóng đêm. Em hãy đi tìm
Hãy đi tìm cho con đường ngắn lại!

“Hãy hát lên đàn Ukulele…”
Những móng tay em ánh lên màu đỏ
Dưới ánh sáng sao trời anh bỗng nhớ
Vật trang sức bằng đá muộn màng kia.

London, Giáng sinh 1924.
__________________

* Ukulele: Đàn ghi ta Hawaii.

FOG

Say it with a ukulele


«Πες της το μ’ ένα γιουκαλίλι…»

γρινιάζει κάποιος φωνογράφος·
πες μου τι να της πω, Χριστέ μου,
τώρα συνήθισα μονάχος.

Με φυσαρμόνικες που σφίγγουν

φτωχοί μη βρέξει και μη στάξει
όλο κι κράζουν τους αγγέλους
κι είναι οι αγγέλοι τους μαράζι.

Κι οι αγγέλοι ανοίξαν τα φτερά τους

μα χάμω χνότισαν ομίχλες
δόξα σοι ο θεός, αλλιώς θα πιάναν
τις φτωχιές μας ψυχές σαν τσίχλες.

Κι είναι η ζωή ψυχρή ψαρίσια

-Έτσι ζεις; - Ναι! Τι θες να κάνω·
τόσοι και τόσοι είναι οι πνιμένοι
κάτω στις θάλασσας τον πάτο.

Τα δέντρα μοιάζουν με κοράλλια

που κάπου ξέχασαν το χρώμα
τα κάρα μοιάζουν με καράβια
που βούλιαξαν και μείναν μόνα…

«Πες της το μ’ ένα γιουκαλίλι…»

Λόγια για λόγια, κι άλλα λόγια;
Αγάπη πού `ναι η εκκλησιά σου
βαρέθηκα πια στα μετόχια

Α!, να ’ταν η ζωή μας ίσια

πώς θα την πέρναμε κατόπι
μα αλλιώς η μοίρα το βουλήθη
πρέπει να στρίψεις σε μια κόχη.

Και ποια είν’ η κόχη; Ποιος την ξέρει;

Τα φώτα φέγγουνε τα φώτα
άχνα! δε μας μιλούν οι πάχνες
κι έχουμε την ψυχή στα δόντια.

Τάχα, παρηγοριά θα βρούμε;

Η μέρα φόρεσε τη νύχτα
όλα είναι νύχτα, όλα είναι νύχτα
κάτι θα βρούμε ζήτα- ζήτα…

«Πες της το μ’ ένα γιουκαλίλι…»

Βλέπω τα κόκκινά της νύχια
μπρος στη φωτιά πως θα γυαλίζουν
και τη θυμάμαι με το βήχα.

Λονδίνο, Χριστούγεννα 1924


TỪ CHỐI

Bờ biển màu trắng và bí ẩn
Như chim bồ câu trên bờ
Ta khát nước vào giữa trưa
Nhưng mà nước mặn.

Trên bãi cát vàng
Ta đem viết tên em
Nhưng mà cơn gió biển
Đã chùi sạch cái tên.

Với đam mê và xúc cảm
Và ước muốn của trái tim
Ta đã bắt đầu sống: sai lầm!
Và ta đã làm đổi thay cuộc sống.


TẮT GIỌNG NÓI CỦA EM

Tắt giọng nói của em - ánh nắng chiều
Hoàng hôn đã tắt
Số phận của anh, ôi em yêu
Đêm đến là em biến mất.

Chỉ một lần, trong giờ khắc
Thế giới hoang vu. Anh còn lại một mình
Tình đã chết, còn lại chiếc bình
Trong bình không giọt sương hay nước.

Đêm đến, và đã không còn
Cái miền quê em đã tắm
Đâu rồi miền quê, đâu rồi bờ biển
Vĩnh biệt em! Niềm hạnh phúc của anh.

Thứ Hai, 19 tháng 12, 2016

Nelly Sachs - Giải Nobel Văn học năm 1966


Nelly Sachs (1891-1970) – nữ nhà thơ Đức gốc Do Thái, giải Nobel Văn học năm 1966.

Nelly Sachs sinh ngày 10-12-1891 trong một gia đình Do Thái giàu có ở Berlin. Từ nhỏ đã yêu thích âm nhạc, văn chương, làm thơ đăng trên một số báo và in một cuốn sách bao gồm những giai thoại và truyền thuyết. Năm lên 15 tuổi Nelly Sachs đọc tiểu thuyết Gostar Berlings Saga của nữ nhà văn Thụy Điển Selma Lagerlof (1858 - 1940), cuốn sách đã để lại trong lòng Nelly Sachs một ấn tượng vô cùng sâu sắc và cô đã viết thư cho Selma Lagerlof. Kể từ đó hai người tiếp tục thư từ cho đến khi Selma Lagerlof mất.


Năm lên 18 tuổi Nelly Sachs bắt đầu làm thơ về thiên nhiên và dựa trên những câu chuyện cổ tích, một số bài thơ được đăng trên các báo. Sau khi bố mất và Hitler lên nắm quyền ở Đức, Nelly Sachs cùng mẹ sống một cuộc sống thu mình, không tiếp xúc với xã hội bên ngoài.


Năm 1940, nước Đức đánh chiếm Châu Âu và khủng bố người Do Thái, Nelly Sachs trốn sang Thụy Điển và ở đây tiếp tục sáng tác và dịch thuật. Tập thơ đầu tiên sau chiến tranh của bà Trong ngôi nhà của tử thần xuất bản tại Đông Đức năm 1947. Thơ Nelly Sachs mang tư tưởng nhân đạo, thường nói về nỗi thống khổ và niềm hi vọng của dân tộc Do Thái, chịu ảnh hưởng bởi thơ ca truyền thống Do Thái và chủ nghĩa thần bí cổ đại Đức. Từ sau chiến tranh bà còn viết một số vở kịch, nhưng tác phẩm khiến bà nổi tiếng nhất là Trốn chạy và biến đổi (1959). Sau tập thơ này bà được trao giải thưởng Anetta von Droste Hulsoff và chính quyền Dortmund đã lập ra một giải thưởng văn học hàng năm mang tên Nelly Sachs và cấp cho bà một chế độ trợ cấp trọn đời.


Nelly Sachs được tặng nhiều giải thưởng, trong đó giải Nobel Văn học bà nhận cùng với nhà văn Do Thái khác là Shmuel Agnon. Nelly Sachs mất tại Stockholm ngày 12-05-1970.


Tác phẩm: 

- Trong ngôi nhà của tử thần (In den Wohnungen des Todes, 1946), thơ.
- Che mờ các ngôi sao (Stern ver dunkelung, 1949), thơ.
- Không ai biết được sẽ ra sao (Und niemand weiss weiter, 1957), thơ.
- Trốn chạy và biến đổi (Fluch und Verwandlung, 1959), thơ.
- Bí kịch về những đau khổ của Israel (Ein Mysterienspiel vom Leiden Israels, 1951), kịch.
- Những dấu hiệu trên cát (Zeichen im Sand, 1962), tập kịch.



CÁC DÂN TỘC TRÊN ĐỜI


Các dân tộc trên đời

hãy bằng sức mạnh những vì sao xa xôi
quấn vào như búp sợi
hãy đan, rồi tháo, rồi đan lại
cho trộn lẫn những lời
như cái tổ ong
châm chích cho thoả lòng
và để cho ong cắn lại.

Các dân tộc trên đời

chớ hủy hoại những lời hoàn vũ
chớ chia cắt bằng dao lòng thù hận khắp nơi
tiếng động sinh ra cùng hơi thở!

Các dân tộc trên đời

có ai không hiểu ngầm cái chết
khi nói “cuộc đời”
có ai không hiểu rằng máu thịt
khi nói “vành nôi”!

Các dân tộc trên đời

những lời nói nơi ngọn nguồn bỏ lại
bởi chúng sẽ quay về với
những chân trời
bằng mặt trái của mình
sự sơ suất che đêm lại
để những vì sao sẽ hồi sinh.


NHỮNG NGƯỜI GIÀ


Ở đây

Trong kho chứa của những ngôi sao này
Trời đêm che lên từng mảng
Họ đứng và đợi Chúa Trời.
Những móc sắt han gỉ cùm miệng họ
Lưỡi lặng câm. Chỉ những đôi mắt nói lời
Trong những đôi mắt – là những cái giếng xác chết chất đầy
Ô, những người già mang những đứa trẻ bị thiêu trong mắt
Như tài sản duy nhất của họ trên đời…

Những người già đứng đấy

Đêm cắt vào giấc ngủ
Vào bầu trời đêm họ dõi mắt nhìn
Họ đợi Chúa Trời với vì sao cháy lên.

Những bàn tay giơ vào trời xanh

Những đôi môi cháy sém
Những đôi môi câm nín
Trong tiếng kêu lạc lối những hành tinh.

Chỉ những đôi mắt không ngủ bao giờ

Bầy quạ đen trên đám mồi bay liệng
Chìm trong nước mắt và luôn tái hiện
Quạ canh chừng những đứa trẻ cháy thành tro.

Ô, những người già mang những nấm mồ:

Kí ức đắng cay của những ngày khiếp đảm!
Họ vẫn đợi, kiên gan, dù Chúa Trời im lặng
Không vội vàng từ xứ sở những vì sao…



*Năm 1966 Nelly Sachs được trao giải Nobel Văn học cùng với Agnon. Trong lời đáp ở buổi tiệc chiêu đãi Nelly Sachs nói rằng: “Agnon đại diện cho nhà nước Israel còn tôi đại diện cho thảm kịch của dân tộc Do Thái”.


Ngày 10-5-1933 ở Berlin, Đức quốc xã đem đốt hàng loạt sách “độc hại” do những tác giả người Do Thái viết ra. Trong số này có sách của H. Heine, S. Freud. S. Zweig, A. Einstein… Nhưng từ giữa thế kỉ 19 nhà thơ vĩ đại Heinrich Heine đã viết những lời tiên tri: “Nơi mà người ta đem đốt sách, rồi họ sẽ đốt người!”


Trong suốt những năm chiến tranh thế giới thứ hai Đức quốc xã thi hành chính sách giết hết người Do Thái. Bất kể đàn ông, phụ nữ, người già, trẻ con… Sáu triệu người Do Thái bị giết ở Đức và các nước châu Âu bị Đức chiếm đóng. Đây là một trang bi thảm nhất trong toàn bộ lịch sử dân tộc Do Thái.


Trong những năm kinh hoàng này Nelly Sachs cùng với mẹ đã kịp rời nước Đức trên chuyến tàu cuối cùng sang Thụy Điển. Đến Thụy Điển những năm đầu bà làm đầu bếp, sau đó là dịch thuật và tiếp tục sáng tác. Bà viết trong hồi kí của mình: “Tôi viết để mà tồn tại. Tôi cháy lên trong lửa với những ai ở đấy… Nhưng tôi phải sống để cho những người khác biết về tất cả…” Khi nghe tin về cái chết của người yêu, những người bà con, bạn bè thì phong cách thơ của bà thay đổi hẳn. Những lò thiêu, nhà hỏa táng và những nỗi cực hình luôn có mặt trong thơ bà…


Thơ của Nelly Sachs độc đáo ở hình thức lạ. Dường như toàn bộ thơ bà tạo thành một khúc tưởng niệm. Dưới những vẻ khác nhau chúng hợp thành một bài thơ lớn. “Những khúc Khải huyền tôn giáo này – nhà thơ, nhà phê bình Anh, Stephen Spender (1909-1995) viết – là sự thể hiện tính cách Do Thái, vô cùng mạnh mẽ, cuộc đời sánh ngang với cái chết và ngược lại…” Thơ của Nelly Sachs, có lẽ, là câu trả lời cho câu nói nổi tiếng của nhà triết học, nhà phê bình Đức, Theodor Adorno (1903-1969): “Sau Oswiecim(1) không nên làm thơ nữa”. Nghĩa là thơ ca, bằng cách nào đấy, phải viết khác đi… Quả vậy, thơ của Nelly Sachs không dễ đọc (dịch sang tiếng Việt lại càng khó khăn hơn). Đấy là sự khó nhọc của tâm hồn nhưng nếu xuyên qua được bức tường thì sẽ hiểu hơn về con người nói chung, hiểu về bản thân mình nhiều hơn, hiểu hơn về sự tồn tại cao cấp và đầy bi kịch của con người.


“Những người già” là một bài thơ không có vần bắt đầu bằng tiếng kêu “ở đây”. Những người già đứng ở đây. Họ không làm gì cả, họ chỉ đứng và đợi Chúa Trời. Chúa Trời ở đây không giống với Chúa Trời trong Kinh Thánh – là vị cứu tinh đối với con người trong những tình huống tuyệt vọng, còn ở đây, những người ở “trong kho chứa của vì sao” thì Ngài không thể cứu được họ. Những người già cũng không giống với Job đã gọi Chúa Trời, kêu với Ngài về những đau khổ của mình. Những người già chỉ biết đứng chờ trong tuyệt vọng. Họ đã mất không chỉ hy vọng mà cả lời nói “những cùm sắt han gỉ cùm miệng họ”. Những cùm sắt này hiểu theo truyền thống tôn giáo cho ta liên tưởng với cái mũ gai người ta đã đội lên đầu Chúa Jêsus trước khi đem Chúa đi đóng đinh (Tân Ước_Ma-thi-ơ 27:28). “Lưỡi lặng câm. Chỉ những đôi mắt nói lời…” Chỉ đôi mắt – cửa sổ tâm hồn – có thể biểu hiện được nỗi đau, nỗi tuyệt vọng tràn ngập trong lòng họ. Nelly Sachs mô tả: “những đôi mắt – là những cái giếng xác chết chất đầy”. Giếng là nơi con người lấy nước, giếng cần cho sự sống của con người. Nhưng giếng xác chết chất đầy thì không thể còn sử dụng được nữa. Giếng cũng bị tước mất chức năng của mình là cung cấp nước cho người…


Những người già được nói đến trong bài thơ này không hẳn là những người già cả mà chỉ đơn giản họ là những người sống sót qua những năm tháng khủng khiếp kia và bây giờ họ trở thành những người già. Họ bị mất tất cả: tài sản, gia đình, cả tiếng nói và cả niềm hy vọng. Họ đã chịu đựng quá nhiều đau khổ nên đã không còn cảm nhận được nỗi đau, nước mắt đã không còn trong những đôi mắt của họ. Chỉ còn lại một thứ duy nhất trong đó – “những đứa trẻ bị đốt thành tro”. ở đây qui luật tự nhiên bị phá vỡ – những đứa trẻ đáng lẽ phải sống tiếp sau bố mẹ mình nhưng vì chúng bị thiêu trong lò gas nên chỉ còn lại những người già… Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh Đức Chúa Trời, mặc dù Chúa đã không can thiệp, không giúp được gì cho họ nhưng họ vẫn đợi, vẫn kiên gan và vẫn tin rằng Ngài đang ở đâu đó. Hình tượng Chúa ở đây nói lên nhiều điều. Một mặt, cho thấy tình trạng tuyệt vọng đến tận cùng. Người ta đợi mà không còn mong một điều gì - đây là tình trạng mong manh giữa sự sống và cái chết. Mặt khác, sự tuyệt vọng được gắn liền với hình tượng Chúa – là Đấng Tối Cao mà con người vẫn đặt vào tất cả hy vọng (không quan trọng là sự tồn tại hay sự có mặt của Ngài). Và trái ngược với những điều được nói đến trong bài thơ, thức dậy ở người đọc một tình cảm, một ý nghĩ rằng, dù sao vẫn tồn tại Đức Chúa Trời, chỉ đơn giản là lúc đó Ngài không có mặt. Tồn tại – bởi vì người ta vẫn gọi tên Ngài, còn không có mặt – là bởi vì người ta vẫn đợi.

_____________________________
(1)Oswiecim (tiếng Ba Lan); Auschwitz (tiếng Đức) – thành phố ở miền nam Ba Lan. Trong những năm 1940-1945 là trại giam của phát xít Đức. Hơn 4 triệu người bị giết chết trong trại giam này.


ANH Ở NƠI ĐÊM Ở

Anh ở
nơi đêm ở
cùng với những người học quên cõi trần gian
từ xa xăm
ngón tay của anh điểm tô trận đấu
bằng tiếng nhạc của bản đồ một biển xa xăm
những nốt nhạc trong đôi tai của anh
những cây cầu là cơ sở
từ Đây đến Đó
và một nhiệm vụ giản đơn
mà câu trả lời
chỉ những người đang hấp hối biết.


KHOẢNG LẶNG NGỪNG

Vào giờ khắc
Khi thời gian trở nên trong suốt
Và mặt trời khuất sau chân trời
Trên ngôi mộ chung hoa lá phủ đầy
Thì cuộc sống ở bên kia thế giới
Sẽ báo tin về người.

Sự ánh lên của những cành lá cọ
Là chân lý của sự cô độc hoang vu.

Cuộc đời trước
Trong lời cầu nguyện ánh lên
Và ngủ yên trên mạch nguồn cẩm thạch
Từ đôi tai của vỏ ốc
Tiếng nhạc vang lên.

Ô đại dương mênh mông trong đôi tai nhỏ nhắn
Ôi vũ điệu của tình
Bìa của cuốn sách thời gian mỏng mảnh.

Đấy từng là cuộc sống
Giấc ngủ dửng dưng trong không gian ma thuật màu đen
Cái gai nhọn bị lãng quên
Và hoa hồng nhuốm máu
Thấm vào ký ức đã từng.

Tia chớp hình răng cưa
Chiếu vào vũ hội hóa trang của bão
Bờ xương voi
Chìm vào bóng tối.
  

KHI NGÀY LẶNG NGỪNG

Khi ngày lặng ngừng
vào buổi hoàng hôn
khi giờ không hình thức đến
những giọng cô đơn hòa quyện vào nhau
khi động vật không trở nên thú dữ
hoặc những con mồi
chỉ những bông hoa là vẫn có mùi
khi tất cả trở thành vô danh tiếng
như đã từng trong buổi Đầu Tiên
anh đi dưới hầm mộ của thời gian
mà người mở cửa là người đứng ở Cuối Cùng
ở đó những con tim đang lớn
trong bản chất tối đêm
và anh đi xuống
cái chết đã ở lại sau lưng
nó chỉ là một điểm thoáng qua trên con đường
và anh đừng nhìn về phía cửa
mà đôi mắt hãy mở
để thấy một ngôi sao mới