Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

Odysseas Elytis - Giải Nobel Văn học năm 1979


Odysseas Elytis (tiếng Hy Lạp: Οδυσσέας Ελύτης, tên thật: Odysseus Alepoudhiéis; 2 tháng 11 năm 1911 – 18 tháng 3 năm 1996) là nhà thơ Hy Lạp đoạt giải Nobel Văn học năm 1979 “vì những sáng tạo thơ ca theo truyền thống Hy Lạp, với sức mạnh gợi cảm và cái nhìn trí tuệ sâu sắc đã vẽ nên một cuộc đấu tranh của người đương thời vì tự do và độc lập”. Elytis còn là một họa sĩ tài năng; ông được nhà nước Hy Lạp trao tặng Giải thưởng Quốc gia Hy Lạp trong lĩnh vực thơ ca (1960) và Huân chương Phượng Hoàng (1960).  

Tiểu sử:
Odysseas Elytis sinh ở Heraklion (Candia) trên đảo Crete trong một gia đình người Hy Lạp cổ từ đảo Lesbos chuyển đến. Năm Elytis lên sáu tuổi, cả gia đình chuyển về thủ đô Athena. Tại đây Elytis học tiểu học và trung học, rồi từ năm 1930-1935 học luật tại Đại học Athena nhưng bỏ giữa chừng. Elytis yêu thích thơ ca, hâm mộ nhà thơ Pháp Paul Eluard và chủ nghĩa siêu thực. Khi bắt đầu làm thơ ông bỏ họ của mình đã nổi tiếng trong giới kinh doanh để lấy bút danh là Elytis - gốc từ Hellas (Ελλάς, nước Hy Lạp), Elpida (Ελπδα, hi vọng), Eiefteria (Ελευθερια, tự do), Eleni (Ἑλένη hay Helen, nữ thần sắc đẹp). Năm 1935, ông đăng các bài thơ đầu tiên trên tờ Νέα Γράμματα (Tổng quan văn học mới) và tham gia một cuộc triển lãm siêu thực tổ chức tại Athena. Năm 1936 và 1937, tạp chí Ngày Macedonia in thành sách tập thơ Προσανατολισμοί (Định hướng). Năm 1939, tập Klepsidhres tou ahnóstou (Đồng hồ cát của người vô danh) và vào năm 1943, Ηλιος ο πρώτος, παραλλαγές πάνω σε μιαν αχτίδα (Ánh nắng mặt trời đầu tiên) lần lượt được xuất bản. Năm 1940 Hy Lạp bị Ý xâm chiếm, Elytis phục vụ trong quân đội với cấp bậc hạ sĩ. Trong thời gian này ông viết tác phẩm mang lại cho ông danh hiệu là một trong các nhà thơ nổi tiếng nhất của cuộc kháng chiến ở Hy Lạp và đấu tranh vì tự do: Άσμα ηρωικό και πένθιμο για τον χαμένο ανθυπολοχαγό της Αλβανίας (Bản anh hùng ca bi tráng tặng người trung úy hi sinh trong chiến dịch Albania, 1945).

Sau chiến tranh, Odysseas Elytis đảm đương nhiều nhiệm vụ xã hội (ông là người phụ trách nhiều chương trình trên đài phát thanh) và ngoài việc viết phê bình văn chương và nghệ thuật, trong 10 năm tiếp đó ông sáng tác rất ít. Thời gian 1948-1952, ông sống ở Pháp và đi du lịch nhiều nơi, quen biết với nhiều nhà văn, nghệ sĩ nổi tiếng thế giới. Tập thơ Το Άξιον Εστί (Điều xứng đáng, bắt đầu viết năm 1948, nhưng đến 1959 mới hoàn thành và xuất bản) được nhìn nhận như tác phẩm lớn nhất của Elytis, được dịch ra nhiều thứ tiếng và năm 1960 đã đoạt giải thưởng quốc gia về thơ ca. Các năm 1961, 1962, Elytis có chuyến đi dài ngày đến Mỹ và Liên Xô; sau năm 1967 ông sống hai năm lưu đày tự nguyện tại Pháp để phản đối cuộc đảo chính quân sự ở Hy Lạp. Năm 1978 ra đời trường ca Μαρία Νεφέλη (Maria Neféli) được ông viết trong thời gian khá dài. Sau khi ông gặp một phụ nữ trẻ, sáng tác của ông đã chuyển hướng sang phản ánh trực tiếp và trung thực lối sống và quan điểm của thế hệ mình. Năm sau Elytis nhận giải Nobel; trong bài phát biểu tại lễ trao giải, ông coi đây không chỉ là vinh dự của riêng mình, mà “cho cả đất nước Hy Lạp với lịch sử nhiều thế kỷ”. Elytis còn là một họa sĩ tài năng; ông được nhà nước Hy Lạp trao tặng Giải thưởng Quốc gia Hy Lạp trong lĩnh vực thơ ca và Huân chương Phượng Hoàng. Nhà thơ sống độc thân đến tuổi 85, mất năm 1996 ở Athena.

Tác phẩm:
*Προσανατολισμοί (Định hướng, 1936-1937), thơ
*Klepsidhres tou ahnóstou (Đồng hồ cát của người vô danh, 1939), thơ
*Ηλιος ο πρώτος, παραλλαγές πάνω σε μιαν αχτίδα (Ánh nắng mặt trời đầu tiên, 1943), thơ
*Άσμα ηρωικό και πένθιμο για τον χαμένο ανθυπολοχαγό της Αλβανίας (Bản anh hùng ca bi tráng tặng người trung úy hi sinh trong chiến dịch Albania, 1945), thơ
*Το Άξιον Εστί (Điều xứng đáng, 1959), thơ
*Έξη και μια τύψεις για τον ουρανό (Sáu và một lời ăn năn cho thiên cung, 1960), thơ
*Ο ήλιος ο ηλιάτορας (Vua Mặt Trời, 1971), thơ
*Το φωτόδεντρο και η δέκατη τέταρτη ομορφιά (Cây ánh sáng và vẻ đẹp thứ mười bốn, 1971), thơ
*Το Μονόγραμμα (Chữ lồng, 1971), thơ
*Τα Ρω του Έρωτα (Thần Tình yêu, 1972), thơ
*Villa Natacha (1973), thơ
*Μαρία Νεφέλη (Maria Nefeli, 1979), trường ca
* Thủy thủ nhí (* Thủy thủ nhí (Ο Μικρός Ναυτίλος, 1988), thơ , 1988), thơ 
*O. Elytis: Selected poems (O. Elytis: Tuyển tập thơ, 1981), thơ

Một số bài thơ


Chữ lồng VII (Ở thiên đường)

Anh để ý một hòn đảo ở chốn thiên đường
Giống hệt em, và một ngôi nhà bên biển

Với cánh cửa nhỏ và chiếc giường thật lớn
Để anh gieo mình vào những vực của âm thanh
Và để anh ngắm nhìn khi thức giấc mỗi sáng

Để thấy một nửa của em dưới nước, khi em bước xuống
Và để khóc cho nửa kia của em ở chốn thiên đường.

Το μονόγραμμα VII (Στόν Παράδεισο)


Στόν Παράδεισο έχω σημαδέψει ένα νησί

Απαράλλαχτο εσύ κι ένα σπίτι στή θάλασσα

Μέ κρεβάτι μεγάλο καί πόρτα μικρή

Έχω ρίξει μές στ’άπατα μιάν ηχώ
Νά κοιτάζομαι κάθε πρωί που ξυπνώ

Νά σέ βλέπω μισή να περνάς στό νερό

και μισή να σε κλαίω μές στόν Παράδεισο.

Máu của tình yêu

Máu của tình yêu nhuộm đỏ người tôi
Những niềm vui ném vào tôi bóng nhỏ
Cơn gió nam làm tôi ô xy hóa
Mẹ xa, hoa hồng bất tử của tôi.

Trong cửa biển người ta đã đợi tôi
Từ ba cột buồm vào tôi họ bắn
Tội lỗi là chỉ tại lòng yêu mến
Mẹ xa, hoa hồng bất tử của tôi.

Đôi mắt to trong tháng bảy một thời
Đã mở ít nhiều bên trong tôi đó
Để thắp sáng cho cuộc đời trinh nữ
Mẹ xa, hoa hồng bất tử của tôi.

Της αγάπης αίματα


Της αγάπης αίματα με πορφύρωσαν

και χαρές ανείδωτες με σκιάσανε
οξειδώθηκα μες στη νοτιά των ανθρώπων
μακρινή μητέρα ρόδο μου αμάραντο

Στ' ανοιχτά του πελάγου με καρτέρεσαν

Με μπομπάρδες τρικάταρτες και μου ρίξανε
αμαρτία μου να 'χα κι εγώ μιαν αγάπη
μακρινή μητέρα ρόδο μου αμάραντο

Τον Ιούλιο κάποτε μισανοίξανε

τα μεγάλα μάτια της μες στα σπλάχνα μου
την παρθένα ζωή μια στιγμή να φωτίσουν
μακρινή μητέρα ρόδο μου αμάραντο


Tôi mở miệng của mình

Tôi mở miệng và biển cả vui mừng
Mang lời tôi đi vào trong hang kín
Rồi thì thầm với những con chó biển
Hằng đêm khóc cho đau khổ người trần.

Tôi cắt tĩnh mạch, giấc mơ ửng hồng
Trở thành vòng để vui cùng con trẻ
Hoặc thành khăn của các cô gái để
Bí mật lắng nghe phép lạ của tình.

Ανοίγω το στόμα μου


Ανοίγω το στόμα μου κι αναγαλλιάζει το πέλαγος

και παίρνει τα λόγια μου στις σκοτεινές του τις σπηλιές
και στις φώκιες τις μικρές τα ψιθυρίζει
τις νύχτες που κλαιν των ανθρώπων τα βάσανα.

Χαράζω τις φλέβες μου και κοκκινίζουν τα όνειρα

και τσέρκουλα γίνονται στις γειτονιές των παιδιών
και σεντόνια στις κοπέλες που αγρυπνούνε
κρυφά για ν' ακούν των ερώτων τα θαύματα.


Gửi cơn gió nhỏ phương bắc

Tôi bảo cơn gió bắc làm một chàng trai tốt
Đừng đập vào cửa nhà và cửa sổ của tôi
Bởi nơi tôi khó ngủ, tình yêu đang chết đây
Tôi nhìn vào đôi mắt, tình đã rất khó thở.

Chào những khu vườn, chào hàng bậu cửa
Chào những nụ hôn, chào những cái ôm
Chào những mũi đất, những bãi cát vàng
Và xin chào những lời nguyền muôn thuở.

Nỗi đau trong đời làm tôi khó ở
Mất mùa hè, tôi còn lại mùa đông
Con thuyền của tôi giờ đã giong buồm
Và tôi thấy thế gian không còn nữa.

Του μικρού βοριά


Του μικρού βοριά παράγγειλα, να `ναι καλό παιδάκι

Μη μου χτυπάει πορτόφυλλα και το παραθυράκι
Γιατί στο σπίτι π’ αγρυπνώ, η αγάπη μου πεθαίνει
και μες στα μάτια την κοιτώ, που μόλις ανασαίνει

Γεια σας περβόλια, γεια σας ρεματιές

Γεια σας φιλιά και γεια σας αγκαλιές
Γεια σας οι κάβοι κι οι ξανθοί γιαλοί
Γεια σας οι όρκοι οι παντοτινοί

Με πνίγει το παράπονο, γιατί στον κόσμο αυτόνα

τα καλοκαίρια τα `χασα κι έπεσα στον χειμώνα
Σαν το καράβι π’ άνοιξε τ’ άρμενα κι αλαργεύει
βλέπω να χάνονται οι στεριές κι ο κόσμος λιγοστεύει



Marina

Cho anh ngửi mùi bạc hà
Mùi cỏ roi ngựa và húng quế
Và hãy để anh hôn em nhé
Đầu tiên anh sẽ nhớ điều gì?

Đài phun nước với chim bồ câu
Kiếm của thiên thần tổng lãnh
Khu vườn với những ngôi sao sáng
Và một cái giếng sâu.

Và để rồi đêm đêm anh sẽ dẫn
Em dạo chơi bên kia của trời xanh
Khi đã bước lên, anh sẽ nhìn em
Như em gái của ngôi sao buổi sáng.

Marina, em là ngôi sao màu xanh
Marina, em là ánh sáng của sao buổi sáng
Marina, em là bồ câu hoang dã của anh
Là bông huệ của mùa hè nóng bỏng.

Μαρίνα


Δώσε μου δυόσμο να μυρίσω,

Λουίζα και βασιλικό
Μαζί μ'αυτά να σε φιλήσω,
και τι να πρωτοθυμηθώ

Τη βρύση με τα περιστέρια,

των αρχαγγέλων το σπαθί
Το περιβόλι με τ' αστέρια,
και το πηγάδι το βαθύ

Τις νύχτες που σε σεργιανούσα,

στην άλλη άκρη τ' ουρανού
Και ν' ανεβαίνεις σε θωρούσα,
σαν αδελφή του αυγερινού

Μαρίνα πράσινο μου αστέρι

Μαρίνα φως του αυγερινού
Μαρίνα μου άγριο περιστέρι
Και κρίνο του καλοκαιριού



VILLA NATACHA*


Tôi muốn nói một điều gì đó rõ ràng và không hiểu được

Tựa như tiếng hót của chim trong thời trận mạc.

Ở đây, nơi tôi đang ngồi trong góc phòng

Tôi tự do hút điếu thuốc đầu tiên của mình
Vụng về giữa niềm hạnh phúc này và run rẩy
Tôi ngắt một cánh hoa, tôi làm con chim sợ
Và Đức Chúa Trời cũng thấy khó xử vì tôi. 

Tuy nhiên, tôi biết nghe theo tất cả mọi người

Cả cây mía gọn gàng, cả tháp chuông cúi xuống
Và ngay cả một khu vườn rất rộng
Đều hiển hiện rõ ràng trong tâm trí của tôi
Những cái tên gọi nối tiếp nhau vang vọng
Rất lạ lùng bằng tiếng nước ngoài: Phlox, Aster, Cytise
Eglantine, Pervanche, Colchique
Alise, Fresia, Pivoine, Myoporone
Muguet, Bleuet
Saxifrage
Iris, Clochette, Myosotis
Primevere, Aubepine, Tubereuse
Paquerette, Ancolie**, và tất cả hình dạng
Được viết rất rõ ràng: hình tròn, hình vuông
Hình tam giác và hình thoi
Như những con chim nhìn chúng – hãy để cho đời đơn giản
Bức tranh của Picasso:
Phụ nữ, trẻ em và nhân mã.
Tôi nói rằng: điều này sẽ tới. Và điều khác đi qua. 
Cuộc đời không cần nhiều lắm đâu mà. Một cái gì đó
Rất nhỏ. Như tay lái xoay vòng trước khi va chạm
Nhưng
Chính xác

Trong chiều trái ngược.
Chúng ta vốn yêu những gì nguy hiểm: giờ phải trả giá cho điều này.
Tôi mơ về cuộc cách mạng trong lĩnh vực cái ác và chiến tranh –
Tựa như trong lĩnh vực dùng sắc màu biểu cảm mà Matisse thực hiện. 

II

Nhưng mà ở nơi có hai người bạn
Họ chuyện trò hay im lặng – nhưng rồi sau –
Người thứ ba không còn gì để nói.
Và cũng giống như những người bạn ấy –
Biển từ xa xôi cũng trao đổi với nhau
Ngọn gió từ từ và dịu nhẹ xoa
Giữa những ngón tay một màu đen và hỏi:
Ngọn sóng chăng? Có phải là sóng đấy à?
Rồi xưng hô với bạn bằng em, và nói
“Đừng quên em” “Đừng quên em” Có phải Anactoria?
Hoặc có thể là không, có thể chỉ là dòng nước
Rì rào ngày đêm bên nhà nguyện Thánh Agia Paraskevi?
Đừng quên điều gì? Quên ai? Chúng ta không biết được.
Như trước đêm, bạn có điều gì vỡ dập
Tình bạn cũ xưa, hoài niệm sứ pha lê
Một lần nữa bạn không đánh giá đúng điều gì
Bạn nhìn thấy bây giờ khi mọi điều sáng tỏ
Và thấy đắng trong miệng mình như một ngụm cà phê
Giơ tay vẫy vu vơ – ai biết được rằng – có thể
Ở kiếp nào đấy bạn gọi tiếng vọng bằng lý do như thế
(Mà, có thể là do ý nghĩ ngày nào
Quá mạnh mẽ nên nó đưa về phía trước)
Đối diện bạn, từ dưới lên trên, gương nứt.
Tôi nói rằng: trong một khoảnh khắc duy nhất, mà
Bạn tự mình không biết rằng liệu mình bắt được
Chữ viết đưa ra vết nứt
Ai nhận, ai cho. Bởi vì nếu không thì lúc này
Cái chết đành phải chết
Và sự mục hoai đành phải mục hoai
Và bông hoa hồng một thuở
Mà bạn giữ trên tay, và hòn sỏi ngàn năm rồi
Cần được đặt vào một mô hình mới.
Với sự khôn ngoan và lòng dũng cảm. Picasso và Laurens. 
Ta bước lên trên Tâm lý học, Chính trị, Xã hội học và rám nắng
Trong những chiếc áo sơ mi màu trắng giản đơn.

III

Con người trái với ý muốn của mình
Bạn ác – một bước chân, và số phận này sẽ khác.
Giá mà dù chỉ với một bông hoa nhỏ bên mình
Thì bạn có thể dễ dàng tránh được
Quả thực, tất cả là của mình. Vì rằng một chút
Đôi khi là duy nhất – vì thế tình yêu –
Ta biết những gì còn lại. Chỉ có đám đông
Chỉ biết đứng nhìn phía ngoài sự vật
Tất cả muốn và lấy nên không còn gì hết.
Thế rồi bước sang buổi chiều
Rõ ràng như ở Mytilene hoặc trong tranh Theophilus
Cho đến tận Èze, đến tận mũi Estel
Cơn gió trong những vịnh giang vòng tay của mình
Vẻ trong suốt đến là kinh ngạc
Rằng có thể đưa tay chạm núi và con người có thể nhìn thấy được
Một ngày đêm vừa mới trôi qua
Và bây giờ anh ta đi đến rất hững hờ
Tôi nói rằng, vâng, người ta đã đến
Chiến tranh đến tận cùng và Độc tài đổ xuống
Và nỗi sợ của tình yêu trước người phụ nữ trần truồng
Họ đã đến, họ đã đến và chỉ chúng ta không nhìn
Chỉ thơ thẩn lang thang và để rơi vào ảo ảnh.
Hỡi thiên thần đang bay lượn ở gần đâu đó
Ngươi vô hình và đã nhiều đau khổ, hãy nắm tay tôi
Những chiếc bẫy mạ vàng ở những con người
Tôi phải tránh thật xa thứ đó.
Bởi vì không nhìn thấy nên tôi cảm thấy ở đây
Kẻ duy nhất tôi gọi là Chúa tể, khi mà
Ngôi nhà tĩnh lặng
Thả neo giữa bóng hoàng hôn
Và sáng lên một ánh sáng vô hình
Và ở nơi mà chúng tôi hướng về phía khác
Một ý nghĩ nào đang vây lấy đột nhiên.
___________
*Villa Natacha – một biệt thự ở Pháp; Henri Matisse (1869 – 1954) – họa sĩ Pháp; Anactoria (hoặc Anaktoria) – tên của một người nữ trong thơ của Sappho (khoảng 630 – 570 tr. CN); Mytilene – thành phố ở đảo Lesbos (Hy Lạp);  Theophilus – tên từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “người yêu Chúa”.


**Tên các loài hoa bằng tiếng Pháp. 


VILLA NATACHA


Ι

Έχω κάτι να πω διάφανο κι ακατάληπτο
Σαν κελαηδητό σε ώρα πολέμου.

Εδώ, σε μια γωνιά που κάθισα

Να καπνίσω το πρώτο ελεύθερο τσιγάρο μου
Αδέξιος μες στην ευτυχία, τρέμοντας
Μήπως σπάσω ένα λουλούδι, θίξω κάποιο πουλί
Και σε δύσκολη θέση, εξαιτίας μου, βρεθεί ο Θεός

Κι όμως όλα μου υπακούουν

Και οι όρθιες καλαμιές και το γερτό καμπαναριό
Και του κήπου το στερέωμα όλο
Αντικαθρεφτισμένο μες στο νου μου
Ένα ένα ονόματα που ηχούν
Παράξενα μέσα στην ξένη γλώσσα: Phlox, Aster, Cytise
Élgantine, Pervenche, Colchique
Alise, Frésia, Pivoine, Myoporone 
Muguet, Bleuet
Saxifrage
Iris, Clochette, Myosotis
Primevère, Aubérine, Tubéreuse
Pâquerette, Ancolie, και τα σχήματα όλα
Καθαρογραμμένα μες στα φρούτα: ο κύκλος, το τετράγωνο
Το τρίγωνο και ο ρόμβος
Όπως τα βλέπουν τα πουλιά, να γίνει απλός ο κόσμος
Ένα σχέδιο Πικασσό
Με γυναίκα, παιδάκι και ιπποκένταυρο.
Λέω: κι αυτό θα' ρθει. Και τ' άλλο θα περάσει.
Πολύ δε θέλει ο κόσμος. Ένα κάτι
Ελάχιστο. Σαν τη στραβοτιμονιά πριν από το δυστύχημα
Όμως
Ακριβώς
Προς
Την αντίθετη κατεύθυνση
Αρκετά λατρέψαμε τον κίνδυνο κι είναι καιρός να μας το
ανταποδώσει.
Ονειρεύομαι μιαν επανάσταση από το μέρος του κακού και των πο-
λέμων σαν αυτή που έκανε από το μέρος του σκιόφωτος και των απο-
χρώσεων ο Matisse.

II

Όμως εκεί που δύο φίλοι
Μιλούν ή και σωπαίνουν - προπαντός τότε -
Τρίτο τίποτα δε χωρεί 

                                   Κι όπως οι φίλοι, φαίνεται

Και οι θάλασσες από μακριά επικοινωνούνε
Φτάνει λίγος αέρας, μια σταλιά τριμμένης
Μες στα δάχτυλα, σκούρας, λυγαριάς και να:
Το κύμα; Είναι αυτό;
Είναι αυτό που σου μιλάει στον ενικό και λέει
«Μη με ξεχνάς» «Μη με ξεχνάς»; Είναι η Ανακτορία;
Ή μήπως όχι; Μήπως το νερό μόνον που τρέχει
Νύχτα - μέρα στης Αγίας Παρασκευής το εκκλησάκι;
Να ξεχάσεις τι; Ποιος; Τίποτα δεν ξέρουμε.
Όπως αποβραδίς που κάτι σου έσπασε
Μια φιλία παλαιή, μια θύμηση από φάρφουρο
Ξανά πόσο άδικα ήξερες να κρίνεις
Βλέπεις τώρα που ξημέρωσε
Κι έχεις πικρό, πριν από τον καφέ, το στόμα
Χειρονομώντας άσκοπα, μιας άλλης,
Ποιος το ξέρει, ζωής, κάνεις ηχώ κι είναι απ' αυτό που
(Ή μπορεί κι απ' τη σκέψη
Κάποτε τόσο δυνατή, που προεξέχει)
Αντικρύ σου, μεμιάς, πάνου ως κάτου ο καθρέφτης ραγίζεται.
Λέω: τη μια στιγμή, τη μόνη που
Εάν φτάνει δε γνωρίζεις
Τα Γραμμένα ραγίζονται
Και αυτός που δίνει, παίρνει. Επειδή εάν όχι τότε θα
Πρέπει και ο θάνατος να θανατώνεται και η φθορά
Να φθείρεται και το μικρό
Τριανταφυλλί που κάποτε
Στην παλάμη σου κράτησες, βότσαλο και αυτό
Κάπου, χιλιετηρίδες μακριά, ν' ανασυντίθεται.
Με σοφία και θάρρος. Picasso και Laurens. Να πατήσουμε
πάνω στην Ψυχολογία, στην Πολιτική, στην Κοινωνιολογία,
ηλιοκαμένοι μ' ένα σκέτο άσπρο πουκάμισο.

III

Άνθρωπε, άθελά σου
Κακέ - παρ' ολίγο η τύχη σου άλλη.
Σ' ένα, έστω, λουλούδι αντίκρυ αν ήξερες
Να πολιτεύεσαι
Σωστά, θα τα 'χες όλα. Επειδή απ' τα λίγα, μερικές φορές
Κι από το ένα - έτσι ο έρωτας -
Γνωρίζουμε τα υπόλοιπα. Μόνο το πλήθος να:
Στο χείλος των πραγμάτων στέκει
Όλα τα θέλει και τα παίρνει και δεν του μένει τίποτα.
Κιόλας έφτασε το απόγεμα
Γαλήνιο σαν της Μυτιλήνης ή μιας ζωγραφιάς
Του Θεοφίλου, ως πέρα το Èze, το Cap - Estel,
Κόλποι όπου σιάχνει αγκαλιές ο αέρας
Μία διαφάνεια τόση
Που τα βουνά τ' αγγίζεις και τον άνθρωπο εξακολουθείς να βλέπεις
Που πέρασε ώρες πριν
Αδιάφορος, μα τώρα πρέπει να έφτασε.
Λέω: ναι, πρέπει να έχουν φτάσει
Ο πόλεμος στο τέρμα του, και ο Τύραννος στην πτώση του
Και ο φόβος του έρωτα μπρος στη γυμνή γυναίκα.
Έχουνε φτάσει, έχουνε φτάσει και μόνο εμείς δε βλέπουμε
Παρά ψαύοντας ολοένα πέφτουμε στα φαντάσματα πάνου.
Άγγελε συ που κάπου εδώ γύρω πετάς
Πολυπαθής και αόρατος, πιάσε μου το χέρι
Χρυσωμένες έχουν τις παγίδες οι άνθρωποι
Κι είναι ανάγκη να μείνω απ' τους απέξω.
Επειδή και ο Αφανής, παρών αισθάνομαι πως είναι
Ο μόνος που τον ονομάζω Πρίγκιπα, όταν
Ήρεμα το σπίτι
Αγκυροβολημένο μες στο ηλιοβασίλεμα
Βγάνει άγνωστες λάμψεις
Και σαν από έφοδο, μια σκέψη
Εκεί που για τ' άλλου τραβούσαμε αναπάντεχα μας κυριεύει.

1969


THỦY THỦ NHÍ (Trích)
(Ο Μικρός Ναυτίλος)

II

Tôi đến sống ở một đất nước, xuất phát từ một thực tế khác, như một giấc mộng – từ những sự kiện trong cuộc đời của tôi. Đất nước này tôi cũng gọi là Hy Lạp và tôi vẽ lên trên giấy, để nhìn xem. Nó dường như nhỏ bé vô cùng và thật khó nắm bắt. 
Theo thời gian, tôi đưa ra một vài thử thách: khi thì những trận động đất đột ngột, khi thì những cơn bão dữ dội ngày xưa. Rồi tôi thay đổi vị trí của đối tượng này kia, để cho nó không còn giá trị gì. Tôi nghiên cứu hồ sơ miệt mài và riêng tư để đủ điều kiện cho khả năng tạo ra những ngọn đồi, những nhà thờ, những nguồn nước mạch. Thế rồi một hôm tôi làm cả một vườn cam quýt, hương thơm của Heraclitus và Archilochus, nhưng thứ hương thơm này đã làm cho tôi sợ hãi. Và tôi chậm rãi xâu lời như xâu chuỗi kim cương, thành vương miện để khoác lên cho xứ sở mà tôi yêu mến. Mặc cho không ai nhìn thấy xứ sở này kiều diễm. Mặc cho người ta sẽ nghi ngờ điều này: có lẽ xứ sở như vậy đã không tồn tại.

III

Tôi đi lang thang khắp đất nước của tôi, và tôi ngỡ rằng sự nhỏ bé đó là tự nhiên, tôi tự nói với mình: phải có một mục đích nào đó ở cái bàn gỗ này dưới ô cửa sổ, với cà chua và ô liu. Để cảm giác sinh ra từ cái bảng hình chữ nhật, một chút màu đỏ và phong phú màu đen, đi thẳng vào những hình tượng thánh linh thiêng. Và cái xứ sở vừa tạo dựng cần được mở rộng trong ánh hào quang của biển, - cho đến khi trở thành rõ ràng sự vĩ đại tự thân.
Tôi sợ phải sử dụng những lập luận rằng chỉ có mùa xuân mới biết cách làm chủ được, tuy nhiên, chỉ như thế, tôi mới hiểu hết sự trinh nguyên, và chỉ như thế, tôi mới có thể hình dung ra xứ sở đang gìn giữ những đức hạnh bí mật của mình: cho vào thùng rác tất cả những phương tiện mà con người có thể phát minh là để giữ gìn và đổi mới nó.

IX

“Hôm qua tôi đặt bàn tay của tôi trên cát và cảm nhận bàn tay của xứ sở mình. Và sau đó cả ngày hoa phong lữ trong sân nhìn tôi với cái nhìn đầy ý nghĩa. Những con thuyền được kéo lên bờ trở thành một cái gì đó vô cùng thân ái. Và vào buổi tối, đến tận đêm, khi tôi tháo đôi bông tai của người để hôn như tôi mong – khi dựa lưng vào bức tường của nhà thờ – biển rầm rì và các Thánh bước ra để chiếu sáng cho tôi với bao ngọn nến”.
Một điều chắc chắn, mỗi người chúng ta có một cảm giác đặc biệt, không có gì thay thế được, và nếu bạn chưa nắm bắt, không cách ly đúng lúc, để sau đó sống với nó, để nó lấp đầy những hành động có thể nhìn ra – thì quả thực là bạn đang làm điều vô ích.

XXVIII

Hàng ngàn năm nay chúng ta vẫn trên đường. Gọi bầu trời là “bầu trời” và biển cả là “biển cả”. Tất cả mọi thứ sẽ thay đổi một ngày nào đó, và chúng ta cũng đổi thay như vậy, nhưng bản chất của ta luôn được vẽ theo qui luật hình học mà ta đã quên lãng ở Plato. Và ở đó, từng nghiêng xuống, như bây giờ chúng ta nghiêng mình trên mặt nước ở hòn đảo của ta, chúng ta tìm ra vẫn những ngọn đồi màu nâu, vịnh biển và áo choàng, cối xay gió và nhà nguyện cô đơn, những túp lều bám vào nhau, những vườn nho ngủ như trẻ sơ sinh, những mái vòm và lồng nuôi bồ câu.

Tôi không nói rằng chúng giống hệt nhau. Mà tôi nói đấy vẫn là những chuyển động tự nhiên và tự phát cùng một linh hồn thẳm sâu được sinh ra và liên quan đến nhau theo một hướng nhất định của vật chất. Vẫn những xung lực, vẫn những niềm khao khát hướng về ý nghĩ thẳm sâu của một Thiên đường khiêm nhượng – đó là “cái tôi” thực sự của ta, là quyền của ta, tự do của ta, cái thứ hai của ta – đó mặt trời tâm linh thực sự. 

Czeslaw Milosz - Giải Nobel Văn học năm 1980


Czeslaw Milosz (30 tháng 6 năm 1911 – 14 tháng 8 năm 2004) – nhà văn, nhà thơ, dịch giả Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học 1980 “vì các sáng tác thể hiện nỗi đau khổ của con người không được bảo vệ trong một thế giới của các cuộc xung đột nghiêm trọng”. Thơ của Czeslaw Milosz đa dạng về đề tài, phong phú về trí tuệ, có một sự kết hợp giữa lý trí và trữ tình, hình ảnh cụ thể gợi cảm và sức mạnh biện chứng, sức mạnh của đạo đức và niềm tin. Thơ ông hấp thụ nét độc đáo của truyền thống Đông Âu - quê hương ông, chịu ảnh hưởng của Kitô giáo, Do Thái giáo và chủ nghĩa Mác, cũng như toàn bộ lịch sử đẫm máu của thế kỷ XX. Ông được coi là một trong những nhà thơ Ba Lan vĩ đại nhất, sánh ngang với Adam Mickiewicz. 

Tiểu sử

Czeslaw Milosz sinh ngày 30-6-1911 ở làng Szetejnie, khi đó còn thuộc Đế chế Nga, sau đó là Ba Lan, sau nữa là Liên Xô và cuối cùng là Cộng hòa Lithuania độc lập. Ký ức về tuổi thơ của nhà văn in đậm trong tiểu thuyết Thung lũng Issy. Học Đại học King Stefan Batory ở Wilno, Ba Lan (nay là Vilnius, thủ đô Lithuania), đăng những bài thơ đầu tiên trên tạp chí của trường. Năm 1933, ông xuất bản tập thơ Bài ca về thời gian bị đóng băng ( giải thưởng Hội Nhà văn Ba Lan 1943). 

Từ 1935, ông làm việc cho đài phát thanh Ba Lan, in tập thơ Ba mùa đông. Trong thế chiến I, ông viết thơ chống phát xít, xuất bản trường ca Thế giới: bản trường ca ngây thơ đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác của ông. 

Sau chiến tranh Milosz hoạt động ngoại giao, làm việc ở New York, Washington. Năm 1951, vì bất đồng chính trị, ông xin tị nạn tại Pháp. Tiểu luận Trí tuệ bị cầm tù là tác phẩm nổi tiếng đầu tiên của ông được Phương Tây biết đến. Năm 1952, tiểu thuyết Giành chính quyền đoạt giải thưởng Văn chương Châu Âu. Năm 1960, Milosz sang Mỹ, trở thành giáo sư Đại học California, năm 1970 nhập quốc tịch Mỹ. 

Ngoài sáng tác Milosz còn dịch Kinh Thánh từ tiếng Do Thái cổ sang tiếng Ba Lan và thơ của nhiều nhà thơ Châu Mỹ. 

Trong hơn 20 năm sau giải thưởng Nobel, Milosz vẫn tiếp tục sáng tác, viết thơ, tiểu luận, dịch... Ông nhận được rất nhiều giải thưởng của Ba Lan, Mỹ, là tiến sĩ danh dự của nhiều trường đại học (California, Viện Đại học Cơ Đốc Lublin, New York,...). 

Ông mất ngày 14-8-2004 tại Krakow, hưởng thọ 93 tuổi. Sáng tác của Milosz gồm cả tiếng Ba Lan và tiếng Anh. Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. 

Tác phẩm
* Bài ca về thời gian bị đóng băng (Poemat o czasie zastyglym, 1933), thơ
* Ba mùa đông (Trzy zimy, 1936), thơ.
* Thế giới: Bản trường ca ngây thơ (The world: a naive poem, 1943), trường ca
* Bài ca bất khuất (Invincible song, 1943), thơ
* Giải cứu (Rescue, 1944), thơ
* Giành chính quyền (Zdobycie wladzy, 1952), tiểu thuyết
* Trí tuệ bị cầm tù (Zniwolony umysl, 1953), tiểu luận
* Thung lũng Issy (Dolina Issy, 1955), tiểu thuyết
* Châu Âu ruột thịt (Rodzinna Europa, 1958), tự truyện
* Thành phố không tên (Miasto bez imenia, 1969), thơ
* Những điều nhìn thấy ở bờ vịnh San Francisco (Widzenia nad zatoka San Francisco, 1969), tập truyện kí.
* Lịch sử văn học Ba Lan (The history of Polish literature, 1969), sách giáo khoa.
* Mảnh đất Ulro (The land of Ulro, 1977), tiểu luận.
* Hoàng đế trên Trái Đất: quan điểm lập dị (Emperor of Earth: modes of eccentric vision), tiểu luận.
* Tiếng chuông trong mùa đông (Bells in winter, 1978), thơ.
* Sách của Job (Ksiega Hioba, 1980), bản dịch Kinh Thánh.
* Bài ca ngọc trai (Hymn of the pearl, 1982), thơ.
* Nhân chứng thơ ca (Swiadectwo poezji, 1983), thơ
* Trái Đất ngoài tầm với (Nieobjeta Ziemia, 1986), thơ
* Sử biên niên (Kroniki, 1987), thơ.
* Những tỉnh thành (Provinces, 1991), thơ.
* Bắt đầu từ phố của tôi (Zaczynajac od moich ulic, 1992), tập truyện ký
* Đối mặt trước dòng sông: Thơ Mới (Facing the river: New Poems, 1995), thơ


HAI BÀI THƠ

Hai bài thơ dưới đây mâu thuẫn với nhau. Một, phủ nhận việc đi sâu vào vấn đề mà hàng thế kỉ nay các nhà thần học, các nhà triết học quan tâm, khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thế giới trên một hòn đảo ở vùng Caribê. Bài thứ hai, ngược lại, than phiền rằng con người tự đánh mất kí ức của mình và sống có vẻ như không có gì xảy ra, có vẻ như nỗi kinh hoàng không ẩn giấu dưới bề mặt của thiết chế xã hội.
Chỉ có tôi biết rằng sự hoà hợp với thế giới ở bài thứ nhất che giấu trong mình không ít đắng cay, còn hơn cả sự mỉa mai như ta tưởng. Còn sự xung đột với thế giới ở bài thứ hai xuất phát từ một điều rằng sự giận dữ là một nhân tố kích thích mạnh mẽ hơn những cuộc tranh luận triết học. Cứ cho là như vậy. Cả hai bài thơ đồng thời thể hiện những mâu thuẫn của tôi, bởi vì chính kiến trong những bài thơ này, ở một mức độ ngang nhau, đều thuộc về bản thân tôi.
Czeslaw Milosz.


Trò chuyện cùng Jeanne

Ta triết lý với nhau, có để làm gì đâu hở Jeanne(1)
Tốn bao nhiêu lời, tốn bao nhiêu giấy mực
Anh nói thật cùng em về sự xa cách của mình
Rằng anh không đến nỗi đắng cay vì cuộc đời này khó nhọc
Với đau đớn đời thường không tốt hơn mà cũng chẳng xấu hơn.

Cuộc tranh luận của ta kéo dài không dưới ba mươi năm
Còn bây giờ, trên đảo này, dưới bầu trời nhiệt đới
Ta chạy trốn cơn giông, phút giây dưới mặt trời sáng chói
Còn lại đây ngọc bích của màu xanh.

Ta đắm chìm vào bọt biển, bơi về chốn xa xăm
Nơi mặt trời móc vào những tàu lá chuối
Với những lá cọ trên cối xay gió vẫn còn vẫy vẫy
Và người ta đã buộc tội anh
Vì không đạt đến đỉnh cao trong nghề nghiệp của mình
Rằng không đòi hỏi cho mình như Jaspers(2) đã chỉ
Rằng đã coi thường những yêu cầu thế kỉ.

Đung đưa trên ngọn sóng, anh ngắm nhìn những đám mây.

Jeanne ạ, quả thế, anh không biết quan tâm đến sự cứu rỗi của linh hồn
Một người này có năng khiếu thì người kia cũng làm được những gì có thể

Anh xứng đáng với những gì đã xảy ra và anh đồng ý.
Anh không chơi cái trò biết điều theo lối cổ xưa
Là đặc tính của cuộc đời này, sự tồn tại của ta:
Trên bãi tắm phụ nữ cởi trần với sắc đồng trên ngực

Hoa hồng vàng, hoa huệ đỏ, hoa phong lan… và xực
Bằng đôi mắt, bờ môi, lưỡi và nước ép La prune de Cynthere 
Rượu rum và nước đá, nước quả ép và nước xi-rô
Những hàng cây gốc khẳng khiu trong rừng ẩm ướt
Và em vẫn nói rằng ta đã gần cái chết
Rằng ta khổ vì hạnh phúc quá ít chốn trần gian.

Những luống đất của vườn rau có màu tím đen
Em có còn ở lại đây nhìn đất, hay là chẳng
Biển sẽ vẫn như hôm nay, thở từ trong sâu thẳm
Biển co vào, mất hút trong bao la mà vẫn tự do hơn.
Guadeloupe
_________________
(1)Jeanne Hersch – một người bạn lâu năm của Czeslaw Milosz – giáo sư triết học Đại học Geneva (Thụy Sĩ), học trò của Karl Jaspers. 

(2) Karl Jaspers (1883-1969) – nhà triết học Đức, một đại diện của chủ nghĩa hiện sinh. 


Conversation With Jeanne

Let us not talk philosophy, drop it, Jeanne. 

So many words, so much paper, who can stand it. 
I told you the truth about my distancing myself. 
I've stopped worrying about my misshapen life. 
It was no better and no worse than the usual human tragedies. 

For over thirty years we have been waging our dispute 

As we do now, on the island under the skies of the tropics. 
We flee a downpour, in an instant the bright sun again, 
And I grow dumb, dazzled by the emerald essence of the leaves. 

We submerge in foam at the line of the surf, 

We swim far, to where the horizon is a tangle of banana bush, 
With little windmills of palms. 
And I am under accusation: That I am not up to my oeuvre, 
That I do not demand enough from myself, 
As I could have learned from Karl Jaspers, 
That my scorn for the opinions of this age grows slack. 

I roll on a wave and look at white clouds. 


You are right, Jeanne, I don't know how to care about the salvation of my soul. 

Some are called, others manage as well as they can. 
I accept it, what has befallen me is just. 
I don't pretend to the dignity of a wise old age. 
Untranslatable into words, I chose my home in what is now, 
In things of this world, which exist and, for that reason, delight us: 
Nakedness of women on the beach, coppery cones of their breasts, 
Hibiscus, alamanda, a red lily, devouring 
With my eyes, lips, tongue, the guava juice, the juice of la prune de Cythère,
Rum with ice and syrup, lianas-orchids 
In a rain forest, where trees stand on the stilts of their roots. 

Death, you say, mine and yours, closer and closer, 

We suffered and this poor earth was not enough. 
The purple-black earth of vegetable gardens 
Will be here, either looked at or not. 
The sea, as today, will breathe from its depths. 
Growing small, I disappear in the immense, more and more free. 


Bài thơ cuối thế kỷ

Một khi đều tốt đẹp
Thì biến mất khái niệm lỗi lầm
Và mặt đất đã sẵn sàng
Tiêu dùng và vui vẻ
Khắp mọi nơi, mọi chỗ
Không mơ tưởng, chẳng lòng tin.

Tôi, không hiểu tại vì sao
Đi lục tìm trong sách
Của những tiên tri, những nhà thần học
Những thi sĩ, những triết gia
Đi kiếm câu trả lời
Nhăn mặt, chau mày, thức trong đêm vắng
Rồi kêu lên mỗi buổi sáng.

Những gì hành hạ tôi
Thật vô cùng xấu hổ
Thiếu sáng suốt và tế nhị
Là thuộc tính của chuyện này
Chút nữa thì tôi xâm hại
Đến sức khoẻ của loài người.

Chỉ tiếc rằng, kí ức của tôi
Không để cho tôi yên lặng
Và trong đó có những điều sống động
Với nỗi đau của mình
Với cái chết của mình
Và với sự ngạc nhiên tư hữu.

Lấy đâu ra sự trinh trắng, hồn nhiên
ở chốn thiên đàng trên mặt đất
Để trao cho bầu trời trong sạch
Bằng sự rửa tội của nhà thờ?
Có phải chính vì thế mà
Điều này tồn tại đã từ lâu lắm?

Nói cho bậc hiền tri ngoan đạo
Câu ngụ ngôn Arập thế này
Thượng Đế từng nói trong cơn giận:
“Giá mà con người khi hối hận
Nói rằng con là kẻ lỗi lầm
Thì ta đã chẳng hề khen.

Còn ta khi mở cửa cho con
Cho kẻ nhân từ xứng đáng
- Ngài trả lời cao thượng -
Thì ta đã coi thường”.

Tôi biết hỏi ai
Về những việc làm đen tối
Những nỗi đau cùng lầm lỗi
Trong kiến trúc cuộc đời này
Nếu như không ở dưới đây
Không ở trên cao đó
Không một sức mạnh nào có thể
Mở ra nguyên nhân và hậu quả cho tôi?

Không suy nghĩ, không nhớ về
Cái chết trên cây thập ác
Dù hàng ngày đang chết
Một người duy nhất đáng yêu
Người mà lúc nào
Cũng đồng ý và cho phép
Rằng sự tồn tại trên mặt đất
Luôn cùng với đau đớn, cực hình.

Quả là enigmatical
Những điều không hiểu nổi.
Tốt nhất là lời khép lại.
Ngôn ngữ này không phải cho người
Ta chỉ có một niềm vui
Là mùa thu hoạch nho và lúa
Dù không phải cho tất cả
Sự yên lòng được trời trao.
Berkeley.


A Poem For The End Of The Century 


When everything was fine

And the notion of sin had vanished
And the earth was ready
In universal peace
To consume and rejoice
Without creeds and utopias,

I, for unknown reasons,

Surrounded by the books
Of prophets and theologians,
Of philosophers, poets,
Searched for an answer,
Scowling, grimacing,
Waking up at night, muttering at dawn.

What oppressed me so much

Was a bit shameful.
Talking of it aloud
Would show neither tact nor prudence.
It might even seem an outrage
Against the health of mankind.

Alas, my memory

Does not want to leave me
And in it, live beings
Each with its own pain,
Each with its own dying,
Its own trepidation.

Why then innocence

On paradisal beaches,
An impeccable sky
Over the church of hygiene?
Is it because that
Was long ago?

To a saintly man

--So goes an Arab tale--
God said somewhat maliciously:
"Had I revealed to people
How great a sinner you are,
They could not praise you."

"And I," answered the pious one,

"Had I unveiled to them
How merciful you are,
They would not care for you."

To whom should I turn

With that affair so dark
Of pain and also guilt
In the structure of the world,
If either here below
Or over there on high
No power can abolish
The cause and the effect?

Don't think, don't remember

The death on the cross,
Though everyday He dies,
The only one, all-loving,
Who without any need
Consented and allowed
To exist all that is,
Including nails of torture.

Totally enigmatic.

Impossibly intricate.
Better to stop speech here.
This language is not for people.
Blessed be jubilation.
Vintages and harvests.
Even if not everyone
Is granted serenity. 
Berkeley.


KHÔNG GIAN THỨ HAI

Chốn thiên đàng tĩnh lặng biết bao
ta cần lên chốn đó
theo những bậc thang không khí.
Trên những đám mây cao
không có gì cản trở.

Hồn lìa khỏi xác
và hồn rảo bước chân
hồn ra đi, hãy nhớ rằng
có trên trời và dưới đất.

Chẳng lẽ lại là sự thật
rằng ta không tin vào không gian thứ hai?
Và đã biến mất đâu rồi
cả thiên đàng, địa ngục?

Thiếu những đồng cỏ êm đềm chốn ấy
thì sự giải thoát ta biết tìm đâu?
Và sẽ nương náu chốn nào
những tâm hồn lầm lỗi?

Ta khóc về sự mất mát
ta rắc tro lên mặt
những mái tóc ta xoã rối bời.
Ta nài nỉ, ta thì thào khoan nhặt
xin trả về ta không gian thứ hai.


Druga przestreń 


Jakie przestronne niebiańskie pokoje! 

Wstępowanie do nich po stopniach z powietrza. 
Nad obłokami rajskie wiszące ogrody. 

Dusza odrywa się od ciała i szybuje, 

Pamięta, że jest wysokość 
I jest niskość. 

Czy naprawdę zgubiliśmy wiarę w drugą przestrzeń? 

I znikło, i przepadło i Niebo, i Piekło? 

Bez łąk pozaziemskich jak spotkać Zbawienie? 

Gdzie znajdzie sobie siedzibę związek potępionych? 

Płaczmy, lamentujmy po wielkiej utracie. 

Porysujmy węglem twarze, rozpuszczajmy włosy. 
Błagajmy, niech nam będzie wrócona 
Druga przestrzeń.


HÃY QUÊN

Anh hãy quên bao đau khổ
Mà anh gây ra cho mình
Và hãy quên bao đau khổ
Người khác gây ra cho anh.
Dòng nước trôi nhanh, trôi nhanh
Mùa xuân ánh lên rồi lụi
Trên đất rồi sẽ lãng quên.

Anh nghe bài hát xa xăm
Và hỏi ai người hát vậy?
Mặt trời tuổi thơ thức dậy
Cháu chắt, chút chít cứ sinh
Bây giờ nắm tay anh đấy.

Tên những dòng sông còn lại
Làm sao dòng sông dài mãi
Đồng ruộng của anh bỏ hoang
Tháp lầu thảy đều hư không
Anh đứng trên ghềnh tê tái.


Zapomnij 


Zapomnij o cierpieniach, 

Które sam zadałeś. 
Zapomnij o cierpieniach, 
Które tobie zadano. 
Wody płyną i płyną, 
Wiosny błysną i giną, 
Idziesz ziemią ledwie pamiętaną. 

Czasem słyszysz daleko piosenkę. 

Co to znaczy, pytasz, kto tam śpiewa? 
Dziecinne słońce wschodzi, 
Wnuk i prawnuk się rodzi. 
Teraz ciebie prowadzą za rękę. 

Nazwy rzek tobie jeszcze zostały. 

Jakże długo umieją trwać rzeki! 
Pola twoje, ugorne, 
Wieże miast, niepodobne. 
Ty na progu stoisz, zaniemiały.




Ý NGHĨA

- Khi chết đi, ta sẽ nhìn thấy bên kia thế giới.
Phía khác, sau hoàng hôn, chim chóc, đồi núi
Sẽ đọc ra ý nghĩa thực sự mà ta quan tâm.
Những gì chưa từng gặp gỡ rồi sẽ đoàn viên
Điều không thể hiểu sẽ rõ ràng và thấu hiểu.

- Còn nếu như không có bên kia thế giới?
Nếu con chim đậu trên cành không là dấu hiệu
Mà chỉ là con chim trên cành, nếu ngày và đêm
Chỉ nối đuôi nhau mà ý nghĩa chẳng quan tâm
Và không có gì trên trần ngoài đất đai như vậy?

Mà nếu thế, thì dù sao, vẫn còn lời ở lại
Lời một lần thức dậy từ đôi môi của người trần
Chạy và chạy, làm kẻ đưa tin không mệt mỏi
Giữa các vì sao, giữa vũ trụ xoay vần
Lời kêu gọi, lời thét lên và lời phản đối.


Sens 


- Kiedy umrę, zobaczе podszewkе swiata. 

Drugą stronę, za ptakiem, gorą i zachodem słonca. 
Wzywajace odczytania prawdziwe znaczenie. 
Co nie zgadzalo sie, będzie sie zgadzało. 
Co było niepojęte, będzie pojęte. 

- A jeżeli nie ma podszewki świata? 

Jeżeli drozd na gałęzi nie jest wcale znakiem 
Tylko drozdem na gałęzi, jeżeli dzień i noc 
Następują po sobie nie dbając o sens 
I nie ma nic na ziemi, prócz tej ziemi? 

Gdyby tak było, to jednak zostanie 

Słowo raz obudzone przez nietrwałe usta, 
Które biegnie i biegnie, poseł niestrudzony, 
Na międzygwiezdne pola, w kołowrót galaktyk 
I protestuje, woła, krzyczy. 


NHỮNG TIA NẮNG SÁNG NGỜI

Những tia nắng sáng ngời
Giọt sương trời tinh khiết
Hãy giúp người khao khát
Hiểu ý nghĩa cuộc đời.

Sau bức màn ngăn cách
Ai hiểu được đời đâu
Khi còn sống, vò đầu
Hạnh phúc – không hạnh phúc.

Nhưng đến ngày biết hết
Ly biệt sẽ phai màu
Nơi ấy sẽ gặp nhau
Linh hồn và thể xác.


Jasności promieniste 


Jasności promieniste, 

Niebiańskie rosy czyste, 
Pomagajcie każdemu 
Ziemi doznającemu. 

Za niedosiężną zasłoną 

Sens ziemskich spraw umieszczono. 
Gonimy dopóki żywi, 
Szczęśliwi i nieszczęśliwi. 

To wiemy, że bieg się skończy 

I rozłączone się złączy 
W jedno, tak jak być miało: 
Dusza i biedne ciało.





CON CHÓ BÊN ĐƯỜNG*
(Piesek przydrożny)

Sự hạn chế


Nhận thức của tôi chỉ nhỏ bé, trí tuệ cũng ngắn ngủi thôi. Tôi đã cố gắng như tôi đã có thể, để học, để đọc rất nhiều sách – và không có gì. Sách trong nhà tôi đổ xô ra cả bên ngoài các kệ, sách nằm thành đống trên ghế, trên sàn nhà, sách để lộn xộn ở các lối đi. Tất nhiên là tôi không thể đọc hết tất cả số đó, mặc dù đôi mắt sói của tôi vẫn háo hức những tên sách mới. Tuy nhiên, để được chính xác, để cái cảm giác về sự giới hạn của mình không phải là một cái gì đó thường xuyên, mà nó chỉ phát sinh bất cứ lúc nào một cách bột phát – nhận thức về sự chật hẹp của trí tưởng tượng của chúng ta, như thể hộp sọ của ta là quá dày nên nó không cho phép trí tuệ nắm bắt tất cả những gì mà nó được phép. Tôi có nghĩa vụ phải biết tất cả những gì đang xảy ra bây giờ, cùng lúc ở những nơi khác nhau của Trái đất, tôi có nghĩa vụ phải thâm nhập vào ý thức của những người đương thời và những người đã sống nhiều thế hệ trước đây, cũng như những người đã sống hai ngàn năm và tám ngàn năm trước. Tôi có nghĩa vụ, thế cái gì và từ đâu?


Không kiểm soát được


Anh ta không thể kiểm soát được những ý nghĩ của mình. Chúng lang thang nơi nào muốn, và khi để ý quan sát chúng, anh ta cảm thấy khủng khiếp. Bởi vì chúng không phải là những ý nghĩ tốt, và đem ra xem xét thì thấy sự tàn nhẫn bên trong. Anh ta nghĩ rằng thế giới quá nhiều đau khổ, và con người xứng đáng với điều đó để chấm dứt sự tồn tại của mình. Tuy nhiên, anh ta nghi ngờ rằng sự tàn nhẫn từ trí tưởng tượng của mình và sự thúc đẩy cho sáng tạo bằng cách nào đó có một sự liên quan.


Ở vị trí Đấng sáng tạo


Nếu bạn được trao quyền để tạo ra thế giới một lần nữa, bạn sẽ suy nghĩ và suy nghĩ, rồi cuối cùng bạn đi đến kết luận rằng không thể phát minh ra bất cứ điều gì tốt hơn so với những gì đang tồn tại. Hãy ngồi trong một quán cà phê và bạn hãy nhìn những người đàn ông và phụ nữ đi ngang qua. Hãy đồng ý là, đấy có thể là những sáng tạo không phải vật chất, không phụ thuộc vào thời gian, bệnh tật và cái chết. Nhưng chính sự phong phú vô hạn, sự phức tạp, sự đa dạng của sự vật ở trần gian xuất phát từ những mâu thuẫn mà nó chứa đựng. Lý trí sẽ không có được sự hấp dẫn nếu nó không phải là tất cả những gì gợi nhớ đến sự gắn bó với vật chất của nó: những cuộc thảm sát, những bệnh viện, nghĩa trang, những bộ phim khiêu dâm. Và ngược lại, nhu cầu sinh lý sẽ bị bản năng động vật làm chủ, nếu như không có lý trí cai quản. Và dây dẫn của ý thức, sự trớ trêu không thể thực hành trò tiêu khiển yêu thích của mình – khi nhìn vào cơ thể. Dường như Đấng sáng tạo, tính đến những mô típ đạo đức mà con người vốn nghi ngờ, đã căn cứ trước hết vào sự mong muốn để cho mọi thứ trở nên vui vẻ và thú vị hơn. 




Thay vì 

Anh ta ngưỡng mộ và ghen tị, nhưng không ai trong số những người như anh ta đã hiến mình cho nghệ thuật. Đi bên cạnh anh ta trên mặt đất là những người thực sự vĩ đại, bằng sức mạnh của lòng thương xót, lòng từ bi và tình yêu, những nhân vật thánh thần. Họ đã có những gì mà anh ta thiếu nhất, và thiếu những gì mà anh ta giống như những nghệ sĩ - đồng chí của mình. Bởi vì nghệ thuật, như anh ta biết, đòi hỏi một sự dâng hiến hết mình, và than ôi, trao mình vào cảnh nô lệ của cái tôi. Tìm thấy trong mình sự ích kỷ của trẻ con, anh ta an ủi mình với ý nghĩ rằng đó không phải là ngoại lệ trong nghề nghiệp của mình nhưng chúng mang sự khiếm khuyết của lòng nhân đạo. 

Nếu tôi được sinh ra như vậy, rằng đã uổng công đi tìm sự khổ luyện và giải thoát, - anh ta nói -  thì cứ để cho công việc của tôi sẽ chuộc lại yếu điểm của tôi, để được tôn vinh ở những người có tâm hồn cao thượng. 

Vì sao xấu hổ?


Thơ ca – đó là công việc đáng xấu hổ, bởi vì nó quá gần với những công việc mà người ta gọi là tâm tình và thân mật. Thơ không thể tách rời khỏi sự nhận thức của cơ thể chúng ta. Thơ bay trên sự nhận thức, thơ là phi vật chất nhưng đồng thời gắn liền với nó và là nguyên nhân của sự xấu hổ, bởi vì nó cho thấy nó thuộc về một lĩnh vực rất riêng, lĩnh vực tinh thần.Tôi đã xấu hổ rằng tôi là một nhà thơ, như thể lột mình trước đám đông, phô diễn công khai những khiếm khuyết của cơ thể. Tôi ghen tị với những người không làm thơ và với những người, vì thế, được gọi là bình thường, tuy nhiên, tôi cũng đã sai, vì danh hiệu này chỉ xứng đáng với một số người. 


Sự khiếm khuyết


Thơ ca và những bộ môn nghệ thuật khác là một sự khiếm khuyết và chúng nhắc cho xã hội loài người rằng tất cả chúng ta đều bệnh tật, mặc dù thật khó để chúng ta thừa nhận điều này.


Tính trẻ con


Nhà thơ là một đứa trẻ giữa những người lớn. Anh ta nhận thức được sự trẻ con của mình và luôn luôn tìm cách tham gia vào các hành động cũng như thói quen của người lớn.

Khuyết điểm: sự nhận thức của trẻ con ở trong mình. Đó là những sinh linh đầy vẻ  ngây thơ và cảm xúc, liên tục bị đe dọa bởi những tiếng cười từ những người trưởng thành.

Ca ngợi các vị thần và nhân vật


Sự khác biệt giữa những bài thơ mà tôi kể về bản thân mình và những bài thơ ca ngợi các vị thần và những nhân vật là không lớn, bởi vì trong cả hai trường hợp đối tượng của sự mô tả là những quái vật thần thoại. Tuy nhiên ...


Sự ác cảm


Sự ác cảm đối với những lời ba hoa về hình thức thơ và những lý thuyết thẩm mỹ hoặc về bất cứ điều gì khép tất cả chúng ta trong một vai trò là do xuất phát từ sự xấu hổ, có nghĩa là tôi không muốn bình tĩnh chấp nhận bản án, lên án tôi là một nhà thơ.

Tôi ghen tị với Julian Przyboś(1): bằng cách nào mà ông biết cách thích ứng với cái vỏ nhà thơ? Điều này có nghĩa rằng ông không tìm thấy trong mình một sự khiếm khuyết, một mớ bóng tối, sự rụt rè không có khả năng tự vệ, hoặc ông tin chắc rằng không có bất cứ điều gì như thế bị rò rỉ ra ngoài?



Trường phái Alexandria

Thời trẻ, bằng cách nào đó, tôi đã bị thuyết phục rằng “trường phái Alexandria” có nghĩa là sự suy yếu của xung lực sáng tạo và sự nhân lên của những bài bình luận về các tác phẩm vĩ đại của quá khứ. Bây giờ tôi không biết điều đó là sự thật hay không, nhưng tôi đã sống đến cái thời mà lời không còn tương đồng với đồ vật, chẳng hạn như cây, mà chỉ với văn bản về cây… và vân vân. “Trường phái Alexandria” có nghĩa là “sự suy đồi”. Rồi sau một thời gian dài những trò chơi này bị quên lãng, nhưng biết làm sao bây giờ với cái thời đại mà không có gì có thể quên được?

Bảo tàng, hình ảnh, bản sao, phim tài liệu lưu trữ. Và ở giữa sự phong phú này có những cá nhân riêng lẻ, những người không nhận thức được rằng xung quanh họ có một bộ nhớ chung đang bao vây và tấn công đầu óc nhỏ bé của họ.

Giá như tôi đã viết nhật ký


Giá như tôi đã viết nhật ký, chẳng hạn như Zofia Nałkowska và Maria Dąbrowska(2) thì đã có cớ để mà ngạc nhiên, bởi vì không có gì nói về hình ảnh của tôi đã được hình thành trong con mắt của độc giả. Những dằn vặt nội tâm của tôi có vẻ không lành mạnh (mà quả là như thế), nhưng đồng thời, sự tương phản giữa chúng và sự làm việc không biết mệt mỏi của tôi chắc chắn sẽ giành được sự tôn trọng. Tuy nhiên, tôi không muốn viết cuốn nhật ký như thế, có nghĩa là, tôi không muốn tiết lộ. Vì rằng, xét cho cùng, điều này sẽ đem lại lợi ích cho ai, ngoài những nhà nghiên cứu lịch sử văn học?


Cao thượng và thấp hèn


Có nhiều thứ xuất phát từ cặp phạm trù: cao thượng – thấp hèn. Nhà thơ viết ra cho những người ngang hàng với mình, anh ta có vẻ như phân chia ra tác giả và độc giả hoặc thính giả, mà người này – là một người lý tưởng, có nghĩa là phải hiểu và biết như chính tác giả. Rất tiếc, những độc giả lý tưởng như vậy có rất ít. Nhận thức được dựa chủ yếu vào sự đọc sai, mà các học giả và các nhà phê bình dựa trên sự đọc sai rồi xây dựng các lý thuyết của họ. Sự hiểu lầm nguy hiểm xảy ra khi một trí tuệ cao hơn, tỏ ra khiêm nhường, đến với một trí tuệ thấp kém hơn và đối xử với họ như những kẻ ngang hàng. Có một loại tầm thường hóa dẫn đến sự biến dạng đã chỉ ra rằng điều tương tự đã xảy ra như thế. 


Nhà thơ Ba Lan


Nhà thơ Ba Lan phải nỗ lực rất lớn để vượt qua tất cả những gì đã buộc chặt trong ngôn ngữ của mình, di sản của sự lo lắng cho số phận của một đất nước nằm kẹt giữa hai cường quốc. Và điều này làm cho anh ta khác với các nhà thơ của những ngôn ngữ hạnh phúc hơn.

Nhà thơ người Kurd hoàn toàn quan tâm đến số phận của người Kurd. Đối với nhà thơ Mỹ thì không có khái niệm về “số phận của người Mỹ”. Nhà thơ Ba Lan luôn ở giữa.
Chẳng phải từ sự xung đột của hai xu hướng đối lập với nhau mà đưa ra sự đặc thù của thơ Ba Lan? Sự đặc thù này in dấu trong thơ, bề ngoài không có gì chung với lịch sử, như trong thơ tình của Anna Świrszczyńska(3). 

Sự giải thoát


Sự giải thoát đầy đủ khỏi sức hút của tính địa phương là mô phỏng, bắt chước quan điểm của người khác.


Sự chưng cất


Lo lắng, buồn bã, hối hận, lương tâm cắn rứt, xấu hổ, lo âu, trầm cảm – từ những điều này toát ra thứ thơ rõ ràng, cô đọng, đầy đủ, gần như là cổ điển. Và ai có thể hiểu được điều đó?

Chỉ cần đừng giấu diếm. Bởi vì dù ai có giả vờ rằng mặt tối này không có trong anh ta thì sẽ chịu sự trả thù của hơi nước. 

Chẳng lẽ


Không có thể có gì tốt hơn để nói lời tạm biệt với cuộc sống quá khứ của mình bằng một bài bình luận một số bài thơ.


Cá nhân


Sự phát hiện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng là khi chúng ta nói “tôi” và nói với ngôi thứ nhất, điều đó không nhiều hơn là một thủ pháp nghệ thuật. Khi nhà thơ nọ thừa nhận rằng anh ta phát biểu bằng tác phẩm thơ thì không phải anh ta tự mình mà là cá nhân do anh ta tạo nên, anh ta làm tăng sự can đảm và vượt qua sự cắn rứt lương tâm, kiềm chế sự dối trá của mình. Anh ta ngắt quãng những cảm xúc của mình và kết hợp chúng lại với nhau theo cách để viết một aria, mà chỉ một phần của nhân vật giống với mình. 




Mục tiêu


Ở một bên – sự rõ ràng, sự tin cậy, lòng tin, vẻ đẹp của đất đai, khả năng của con người với sự nhiệt tình; một bên khác – bóng tối, tuyệt vọng, hoài nghi, sự tàn bạo của đất đai, khả năng của con người với cái ác. Khi tôi viết, sự thật là bên thứ nhất, khi không viết – bên thứ hai. Chẳng lẽ tôi phải viết để được cứu khỏi sự sụp đổ? Trong sự khẳng định này không có nhiều triết lý, nhưng nó đã được kiểm tra bằng thực nghiệm.  


Câu chuyện


Câu chuyện cần quyến rũ, bao quát và xúc động. Nếu không xúc động, nghĩa là, chưa chạm đến tính chất vốn có của câu chuyện. Về bản chất, tình cảm và kịch tính giống như một câu chuyện cổ tích, những thứ mà người ta bắt đầu quên khi chịu gánh nặng của một loạt các tình huống.


Rửa sạch


Vào cuối đời nhà thơ nghĩ: “Trong những con sóng ám ảnh nào và trong những điều vô lý điên rồ nào của thời đại mình mà tôi đã không bị chết chìm! Thử kéo tôi vào phòng tắm và chà cả ngày lẫn đêm một khi tất cả các bụi bẩn trên người tôi chưa sạch. Tuy nhiên chỉ vì những bụi bẩn này mà tôi có thể trở thành một nhà thơ của thế kỷ XX, và có lẽ thần Pan muốn điều này, để có được lợi ích gì đấy từ tôi”.


Nhà văn Ba Lan


Nhà văn Ba Lan có một phương thuốc mạnh mẽ cho sự cô đơn, đấy là sự tham gia vào công việc chung, việc này vẫn tiếp tục trong nhiều thế kỷ. Nó gần giống như một sự giao tiếp vật lý với tất cả những gì được viết và được nghĩ ra bằng tiếng Ba Lan, bây giờ, có nghĩa là tại điểm mà quá khứ và tương lai đang gặp nhau. Ai đang bị đánh mất điều này thì hãy cố gắng để không phải cô đơn, vì rằng sự cô đơn khi đó sẽ khủng khiếp hơn.


Tôi đã thấy


Tôi đã từng và tôi đang nhận biết, bởi vì tôi đã thấy. Xung quanh tôi là những người được sinh ra muộn hơn, nhưng tôi luôn ngỡ rằng – họ có ít nhất một cái gì đó, nhưng cần phải biết về nó. Trong thực tế, họ không biết bất cứ điều gì, nhưng nếu – thì từ thứ năm đến thứ mười. Cũng tương tự với các chi tiết về tiểu sử của tôi và những cuốn sách mà tôi đã viết. Chúng ta thường tự cao rằng những người khác để ý điều này và họ cần đến nó. Một cái gì đó họ nghe thấy, nhưng mơ hồ, không xác định rõ. Một cuốn sách nào đó đã đến tay họ, và theo đó, họ phán xét về những người khác.


85 tuổi


Lễ kỷ niệm này của tôi, những bông hoa này, những tràng pháo tay này, những nâng cốc chúc mừng này. Giá như người ta biết rằng tôi đang nghĩ gì ... Nó giống như sự cân nhắc lạnh lùng về cái được và mất. Mất là những lời sai lầm đã đi ra khỏi ngòi bút của tôi, và không quay trở lại, bởi vì chúng đã được in và sẽ ở lại mãi mãi, nhưng chúng sẽ hấp dẫn hơn đối với mọi người, và người ta sẽ lặp lại chúng thường xuyên hơn. Vì vậy, tôi tự hỏi mình, có nên viết một số điều thực sự tốt chỉ có thể được trả bằng không chỉ một cuộc sống xiêu vẹo, chẳng hạn như là của tôi, mà còn những thứ đồ bỏ được vất đầy trên con đường đi đến một cặp biểu tượng hoàn toàn sạch. 


Ngược lại


Sinh nhật lần thứ tám mươi lăm, tôi cảm thấy quá đủ đầy với vinh quang và danh dự. Và mọi lúc dường như lắng nghe bằng tai trong về một bản án đã được sắp đặt. Chắc là như thế, giống như thời trẻ tôi đã từng linh cảm điều này. Và còn sự nhận thức về món quà không xứng đáng. Ở đây là chuyện ba hoa phù phiếm, và tôi đi đến ngai vàng của vị Thẩm phán với linh hồn tội lỗi của tôi.


Khao khát sự thật


Sự khao khát sự thật đụng phải thơ và truyện, và khi đó cảm thấy xấu hổ, bởi vì tất cả điều này chỉ là huyền thoại – điếu này chưa từng có và chưa từng cảm thấy. Đấy là ngôn ngữ đã gỡ ra tấm vải nhung của mình để che đậy cái mà tự thân đã chẳng có giá trị gì cả. 





Sự phải lòng

Sự phải lòng. Tomber amoureux. To fall in love. Điều này xảy ra một cách đột ngột hay từ từ? Nếu từ từ, thì nó ở đâu, đây là “đã”? Tôi đã từng phải lòng với một con khỉ được may từ những miếng vải vụn. Với con sóc bằng gỗ dán. Với tập bản đồ thực vật. Với con chim vàng anh. Với con triết bụng trắng. Với con chồn từ bức tranh. Với cánh rừng nằm phía bên phải của con đường đi đến Jaszuny(4). Với bài thơ của một nhà thơ nào đấy. Với những con người, mà những cái tên cho đến hôm nay vẫn làm cho tôi lo lắng. Và đối tượng của sự phải lòng luôn luôn được bao bọc bằng những sự tưởng tượng của dục tình, rơi vào tình trạng như ở Stendhal, “Crystallization” (kết tinh). Thậm chí kinh hoàng, khi bạn nghĩ về sự tương phản giữa các đối tượng tự thân, không được che đậy giữa những cái không được ngụy trang, rồi kể cho mình nghe những câu chuyện ngụ ngôn về nó. Và vì thế, tôi thường xuyên phải lòng một cái gì đó hoặc một ai đó. Chỉ có điều, phải lòng không có nghĩa là có khả năng yêu. Mà chuyện này có phần hơi khác. 


Sự tương phản


Do sự tương phản giữa sự yếu đuối của cơ thể và tác phẩm đã hoàn thành mà nảy sinh sự thiếu lòng tin đối với người thực hiện. “Sao lại thế này? Những cái này là tôi viết ư? Không có cách nào khác, cần phải tin vào sự tham gia của một số thế lực siêu nhiên”.

___________________
*Con chó bên đường (tiếng Ba Lan: Piesek przydrożny; tiếng Anh: Road - side dog) là một tập hợp các tiểu phẩm gồm thơ văn xuôi, cách ngôn, thiền định, các ý kiến của Czesław Miłosz viết trong các năm 1994 – 1997,  xuất bản năm 1997 và ngay lập tức đã trở thành một sự kiện trong đời sống văn học của Ba Lan. Năm sau, tác phẩm này đã nhận được một giải thưởng văn học uy tín Nike-98. Chúng tôi chỉ trích dịch một số mục. 

(1)Julian Przyboś (1901 – 1970) – nhà thơ, nhà văn, nhà ngoại giao Ba Lan. 


(2)Zofia Nałkowska (1884 – 1954) và Maria Dąbrowska (1889 – 1965) – là hai nữ nhà văn Ba Lan. 


(3)Anna Świrszczyńska (1908 – 1984) – nữ nhà thơ Ba Lan. 


(4)Jaszuny – thành phố ở Litva.