Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

Octavio Paz - Giải Nobel Văn học năm 1990


Octavio Paz (1914-1998) - nhà thơ, nhà văn Mexico đoạt giải Nobel Văn học 1990 “vì những tác phẩm đầy nhiệt huyết được viết bằng trí tuệ mẫn cảm dựa trên những giá trị nhân văn cao cả”. Octavio Paz là nhà văn viết nhiều về những vấn đề của văn hóa, văn học. Những suy ngẫm của ông được viết bằng một ngôn ngữ phóng khoáng, mang đậm chất thơ ca, hướng về quá khứ lịch sử và cuộc sống của ngày hôm nay. Ông được đánh giá là một trong những nhà thơ uy tín nhất viết bằng tiếng Tây Ban Nha.

Tiểu sử:
Sinh ngày 31-3-1914 tại Mexico City. Là con một nhà báo nổi tiếng, từ nhỏ đã đọc các tác phẩm của văn học thế giới, mười tuổi đã in thơ, 19 tuổi xuất bản tập thơ Trăng hoang khi đang học luật tại Đại học Quốc gia Mexico. Năm 22 tuổi, ông sang Tây Ban Nha hoạt động xã hội, viết bài chống phát xít; năm 1939 trở về Mexico viết báo và đấu tranh cho quyền lợi người lao động.

Năm 1943, ông sang nghiên cứu văn hóa Mỹ với tư cách nghiên cứu sinh được học bổng của tổ chức Guggenheim. Thời kỳ này, O. Paz cho ra đời những tập thơ trữ tình đầy chất trí tuệ, hình tượng ẩn dụ như Cội rễ con người, Giữa đá và hoa, Tự do dưới lời thề...

Năm 1945, ông bắt đầu hoạt động ngoại giao ở Liên Hiệp quốc, làm đại sứ tại Pháp, Nhật Bản, Ấn Độ ... Năm 1968, ông từ chức để phản đối chính quyền Mexico đàn áp sinh viên, trở về nước tiếp tục viết văn. Năm 1972, O. Paz trở thành thành viên Viện Hàn lâm Mexico; năm 1981 được trao giải Miguel de Cervantes... Năm 1984 nhà nước Mexico tổ chức mừng thọ O. Paz kéo dài 5 ngày liên tục.

O. Paz là nhà văn viết nhiều về những vấn đề của văn hóa, văn học, những suy ngẫm của ông được viết bằng một ngôn ngữ phóng khoáng, mang đậm chất thơ ca, hướng về quá khứ lịch sử và cuộc sống của ngày hôm nay. Ông được đánh giá là một trong những nhà thơ uy tín nhất viết bằng tiếng Tây Ban Nha.

Năm 1990, ông được trao giải Nobel với toàn thể 15 phiếu đồng tình, một điều chưa từng thấy trong lịch sử giải. O. Paz mất ngày 20-4-1998 tại Mexico City.

Tác phẩm:
* Vầng trăng màu ánh bạc (Luna silvestre, 1933), thơ.
* Cội rễ con người (Raiz del hombre, 1937), thơ.
* Giữa đá và hoa (Entre la piedra y flor, 1941), thơ.
* Nơi tận cùng thế giới (A la orilla del mundo, 1942),
* Tự do dưới lời thề (Libretad bajo palabra, 1948), thơ.
* Mê cung của nỗi cô đơn (El laberinto de la soledad, 1950), biên khảo
* Chim đại bàng hay mặt trời (Aguila o sol, 1951), thơ.
* Cây cung và đàn Lyre (El arco y la lira, 1956), biên khảo về thơ
* Bóng mát cây du (Las peras del olmo, 1957), phê bình văn học.
* Đá mặt trời (Piedra del sol, 1957), trường ca.
* Salamandra (1962), thơ.
* Dòng điện xoay chiều (Corriente alterna, 1967), tiểu luận.
* Blanco (1967), thơ.
* Miền dốc phía Đông (East slope, 1968), thơ.
* Lâu đài thanh khiết (El castillo de la pureza, 1968), tiểu luận.
* Bờ phía Đông (Ladera Este, 1969), thơ.
* Lúa mạch (La centena, 1969), thơ.
* Những dòng tái bút (Posdata, 1970), khảo cứu.
* Các hình thể (Topoemas, 1971), thơ
* Những đứa trẻ bùn lầy (Los hijos del limo, 1974), tiểu luận
* Nhà ngữ pháp khỉ (El mono gramatico, 1974), thơ

Một số bài thơ


MAITHUNA(1)


Đôi mắt anh
mở ra đôi cánh
của vẻ đẹp phơi trần.
Em
ở trong vòng tù hãm
bão táp, mưa giông
của mắt nhìn âu yếm.

Luồng âm thanh
mở ra trong buổi sớm
tuyết mộng của bình minh
trắng hơn đùi em trắng.
Tiếng cười của em
là tiếng lá xạc xào, luống cuống
ánh trăng thanh
là chiếc áo của em
trong đêm trải rộng.
Nổ tung vào ánh trăng
nhổm phắt dậy khỏi giường
chiếc lò xo hay hát
rồi bay lên
cắt vào màu đêm trắng toát
của mặt nước hồ.
*
Và đã vỡ tung ra
tia sáng của anh
trên mặt hồ
bóng tối của em.
Và tiếng thét
vang lên
mở ra chiếc bóng
nhưng –
bao nhiêu thể xác
tất cả đều
hòa nhập vào
làm một…
*
Và đây
đường thẳng đứng
khao khát đường ngang
viền khung gương rung lên
hồi tưởng
và bỗng nhiên rơi xuống
hai bàn tay anh giữa những dòng sông.
*
Em đang bơi vào trong
khói sương mờ mịt
và nhanh như tia chớp
bóng sáng của em
trong vòng tay âu yếm của anh.
Nhưng – tối sầm thân thể của em
nhảy lên bờ cát
những con cá dolphin
hỏi: “khi nào?”
“tại vì sao?”, “không lẽ thế?”
từ nụ cười của em
sáng trên người em chiếc áo trăng
và đôi mắt anh ẩm ướt
và cơ thể em quấn chặt
bằng ngọn lửa bừng lên chiếc bóng của em
những cây đu rung rinh
như trẻ con sợ hãi
và ngó nhìn
từ vẻ trần truồng sâu thẳm
đôi mắt em nhìn vào ánh sáng
của tình yêu:
bay trên nỗi niềm đắng cay khổ tận
những chiếc lá, những cánh hoa hồng
và thân thể em càng sáng hơn
thì càng tối hơn chiếc bóng
em cười nhạo màu vàng
tro bụi của em…
*
Mặt trời Bourgogne(2)
rượu vang và tội lỗi
lưỡi từ lửa hồng
máu của đảo hay là đống củi?
Mái tóc em phủ xuống người anh
và trên ngực của em:
nét chữ này không dễ biết
nơi tấm vải trải giường – thêu dệt
bởi một trăm chiếc kim khâu
nét chữ của tình yêu – nhìn vào
áo quần em trút hết…
trò chơi với anh
suốt đời yêu chỉ một
và giọng nói của em
vang trong chiếc bình
đựng đầy thuốc sắc
là dấu hiệu của qui luật muôn đời
vẻ oi bức và nóng
của con rắn mệt đến rã rời
đến tận cùng chóp ngọn
nơi tuyết trắng tinh – nhưng quầng tán
của cơn mưa
dưới cơn mưa đã chín những chùm nho
khi sờ lên mỗi ngón tay run rẩy
cơn mưa rào sôi nổi
như tia sáng cầu may
cho sự báo ân, báo oán sau này
và xác thịt, và khung cửi
nơi trong đêm này căng ra tấm vải
những chiếc lá tả tơi
bởi sức ép thẳng của ai
nơi mờ ảo giữa mặt trời
và đêm vắng
nơi hàng cây đứng lặng
còn cái chết –
như tiếng xào xạc khôn nguôi…
*
Ngày hôm qua
trên giường của em
có ba người
là anh và em, và - trăng sáng.
*
Đột ngột xông vào
bờ môi đêm của em:
một miền của nước
và tiếng kêu ì oạp
của ngọn sóng triều dâng
nước xao xuyến, lâng lâng…
*
Ngủ quên trong em chăng
mà tốt hơn – thức giấc
mở mắt vào phần giữa của em
đen trắng, trắng đen
rõ là quỉ tha ma bắt –
mặt trời không ngủ
và trí nhớ đung đưa như ngọn lửa
ngọn lửa của anh
trong trí nhớ của em.

*
Và mây đen
như xe chở nước
và tin tức –
trên bề mặt con dao
trên ngọn dao
nhỏ giọt
và tuyết
và bếp lò
của cuộc truy hoan
và ngọn lửa
đốt lên lần gặp gỡ
của ngôn ngữ đa thần
với bông hồng rung rinh
và lời bập bẹ
thì thầm
của những cánh hoa…
__________
(1)Cặp uyên ương trong văn hoá thờ cúng của người theo Ấn Độ giáo. Theo họ - đây là một trong những con đường để đạt đến Thượng Đế; sự hòa nhập thể xác dẫn con người về Nguồn Sáng…
(2)Một tỉnh của nước Pháp nằm ở lưu vực sông Seine, nơi sản xuất những loại rượu vang hảo hạng nổi tiếng thế giới.


Maithuna 


Mis ojos te descubren 

Desnuda 
Y te cubren 
Con una lluvia cálida 
De miradas 

Una jaula de sonidos 

Abierta 
En plena mañana 
Más blanca 
Que tus nalgas 
En plena noche 
Tu risa 
O más bien tu follaje 
Tu camisa de luna 
Al saltar de la cama 
Luz cernida 
La espiral cantante 
Devana la blancura 

Fijeza plantada en un abra 


Mi día 

En tu noche 
Revienta 
Tu grito 
Salta en pedazos 
La noche 
Esparce 
Tu cuerpo 
Resaca 
Tus cuerpos 
Se anudan 
Otra vez tu cuerpo 

Hora vertical 

La sequía 
Mueve sus ruedas espejeantes 
Jardín de navajas 
Festín de falacias 
Por esas reverberaciones 
Entras 
Ilesa 
En el río de mis manos 

Más rápida que la fiebre 

Nadas en lo oscuro 
Tu sombra es más clara 
Entre las caricias 
Tu cuerpo es más negro 
Saltas 
A la orilla de lo improbable 
Toboganes de cómo cuando porque sí 
Tu risa incendia tu ropa 
Tu risa 
Moja mi frente mis ojos mis razones 
Tu cuerpo incendia tu sombra 
Te meces en el trapecio del miedo 
Los terrores de tu infancia 
Me miran 
Desde tus ojos de precipicio 
Abiertos 
En el acto de amor 
Sobre el precipicio 
Tu cuerpo es más claro 
Tu sombra es más negra 
Tú ríes sobre tus cenizas 

Lengua borgoña de sol flagelado 

Lengua que lame tu país de dunas insomnes 

Cabellera 

Lengua de látigos 
Lenguajes 
Sobre tu espalda desatados 
Entrelazados 
Sobre tus senos 
Escritura que te escribe 
Con letras aguijones 
Te niega 
Con signos tizones 
Vestidura que te desviste 
Escritura que te viste de adivinanzas 
Escritura en la que me entierro 
Cabellera 
Gran noche súbita sobre tu cuerpo 
Jarra de vino caliente 
Derramado 
Sobre las tablas de la ley 
Nudo de aullidos y nube de silencios 
Racimo de culebras 
Racimo de uvas 
Pisoteadas 
Por las heladas plantas de la luna 
Lluvia de manos de hojas de dedos de viento 
Sobre tu cuerpo 
Sobre mi cuerpo sobre tu cuerpo 
Cabellera 
Follaje del árbol de huesos 
El árbol de raíces aéreas que beben noche en el sol 
El árbol carnal El árbol mortal 

Anoche 

En tu cama 
Éramos tres: 
Tú yo la luna 

Abro 

Los labios de tu noche 
Húmedas oquedades 
Ecos 
Desnacimientos: 
Blancor 
Súbito de agua 
Desencadenada 

Dormir dormir en ti 

O mejor despertar 
Abrir los ojos 
En tu centro 
Negro blanco negro 
Blanco 
Ser sol insomne 
Que tu memoria quema 
(Y 
La memoria de mí en tu memoria 

Y nueva nubemente sube 

Savia 
(Salvia te llamo 
Llama) 
El tallo 
Estalla 
(Llueve 
Nieve ardiente) 
Mi lengua está 
Allá 
(En la nieve se quema 
Tu rosa) 
Está 
Ya 
(Sello tu sexo) 
El alba 
Salva.




THÂN THỂ TRONG TẦM NHÌN

Và bóng tối mở ra, một thân thể phô bày
Suối tóc của em
Rừng rậm mùa thu với dòng nước mặt trời lấp lóa
Miệng em, và hàm răng trắng xóa
Bị giam cầm trong lửa thú nhe răng
Làn da em có màu của một cục đường nung
Những nơi chốn thời gian không biết đến
Môi anh chỉ quen với miền thung lũng
Hẻm đầy trăng giữa hai bầu vú nhô lên
Bụng của em là một vùng cao nguyên
Gáy là thác nước đã hóa thành thác đá
Một bãi biển bao la trải xuống bên sườn.

Đôi mắt của em như mắt hổ gườm gườm
Sau phút chốc – lại là mắt ướt buồn của chó.

Lưng em dưới mắt anh nhìn trải đều lặng lẽ
Tựa như lưng sông trong lửa cháy bập bùng.

Cả ngày đêm dòng nước ngủ mơ màng
Vỗ vào eo lưng có màu đất sét
Còn trên bãi biển của em dài không hết
Như cát ở dưới ánh trăng
Gió thổi vào miệng anh và lời gió thở than
Choàng đôi cánh của mình màu xám
Lên những thân thể trong đêm vắng
Như chiếc bóng của đại bàng
Cô đơn trên những cánh đồng hoang.

Móng chân của em như ánh thuỷ tinh mùa hạ.

Giữa hai chân em một giếng nước ngủ im lìm
Đó là vịnh, nơi biển đêm lặng ngừng
Là con ngựa đen sùi bọt mép
Là hang động dưới chân núi giấu đầy báu vật
Là miệng bếp lò nướng bánh tế thần tiên
Là đôi môi mỉm cười ác độc của em
Là sự lên ngôi của ánh sáng và bóng tối
Của cái nhìn thấy và cái không nhìn thấy
(ở đó da thịt hồi sinh và cuộc sống kéo dài).

Xứ sở của máu, miền đất có một không hai
Từng biết đến anh và anh đã từng biết đến
Là xứ sở duy nhất mà anh tin tưởng
Là lối vào duy nhất dẫn tới vô cùng.


Cuerpo a la vista

Y las sombras se abrieron otra vez y mostraron un cuerpo:
tu pelo, otoño espeso, caída de agua solar,
tu boca y la blanca disciplina de sus dientes caníbales,
           prisioneros en llamas,
tu piel de pan apenas dorado y tus ojos de azúcar quemada,
sitios en donde el tiempo no transcurre,
valles que sólo mis labios conocen,
desfiladero de la luna que asciende a tu garganta entre
          tus senos,
cascada petrificada de la nuca,
alta meseta de tu vientre,
playa sin fin de tu costado.

Tus ojos son los ojos fijos del tigre
y un minuto después son los ojos húmedos del perro.

Siempre hay abejas en tu pelo.

Tu espalda fluye tranquila bajo mis ojos
como la espalda del río a la luz del incendio.

Aguas dormidas golpean día y noche tu cintura de arcilla
y en tus costas, inmensas como los arenales de la luna,
el viento sopla por mi boca y su largo quejido cubre con 
           sus dos alas grises
la noche de los cuerpos,
como la sombra del águila la soledad del páramo.

Las uñas de los dedos de tus pies están hechas del cristal
           del verano.

Entre tus piernas hay un pozo de agua dormida,
bahía donde el mar de noche se aquieta, negro caballo
           de espuma,
cueva al pie de la montaña que esconde un tesoro,
boca del horno donde se hacen las hostias,
sonrientes labios entreabiertos y atroces,
nupcias de la luz y la sombra, de lo visible y lo invisible
(allí espera la carne su resurrección y el día de la vida
          perdurable).

Patria de sangre,
única tierra que conozco y me conoce,
única patria en la que creo,
única puerta al infinito.



HÃY NGHE ANH NHƯ LÀ NGHE MƯA

Hãy nghe anh như là nghe mưa
và hãy nghe anh – một chút hững hờ –
nước, như không khí, rơi tí tách, xào xạc
và như không khí, thời gian
ngày không tàn
đêm không đến
cái mặt nạ hoàng hôn
treo sau cổng
cái mặt nạ thời gian
trong nếp gấp của dòng thơ kìm hãm
hãy nghe anh như là nghe mưa
em hãy lắng nghe mà chẳng nghe ra
vào chính bản thân mình, em hãy ngắm
rồi thiếp ngủ khi canh chừng tình cảm
tí tách mỗi giọt lời
lời nhẹ tênh, còn nước đang sôi:
ta là những người đã từng, là những người đang sống
giây phút này và năm tháng
thời gian nhẹ hơn, nỗi buồn không biết lấy gì đo
hãy nghe anh như là nghe mưa
tất cả ánh lên như nhựa đường ẩm ướt
bốc lên, rồi bơi trong hơi nước
màn đêm buông xuống bằng hình dáng của em
bằng đôi mắt của em nhìn vào anh
còn đêm giống như khuôn mặt
của tia chớp, bập bềnh trên mái tóc
chạy qua đường, em đến với anh
từng giọt nước rơi từ thế kỷ của mình…
hãy nghe anh như là nghe mưa
em đi qua đường phố sương mờ
đó là màn sương bơi trên đường phố
đó là đêm trên chiếc giường em đó
là con sóng vỗ bờ trong hơi thở của em
những ngón tay em ép vào mắt, vào vầng trán của anh
những ngón tay em mí mắt của thời gian đang mở
những ngày cuối tuần, những lần gặp gỡ
hãy nghe anh như là nghe mưa
năm tháng đi qua
rồi lại về trong từng khoảnh khắc thôi mà
em có nghe ra tiếng bước chân của mình đâu đó?
ta nghe tiếng bước chân cả nơi này, nơi nọ
cả bây giờ, cả trong ngày tháng xa xăm
em hãy nghe bước chân của thời gian
trên những con đường không còn dấu vết
em hãy nghe trên thềm mưa rơi tí tách
đêm đang chuyển màu hồng
tia sáng bện vào chiếc lá như tổ ong
khu vườn rùng mình thức dậy
Em hãy bước vào
bóng của em nằm trên trang giấy(1).
________________

(1) Octavio Paz quả là khó cảm nhận. Có thể, chìa khóa để hiểu thơ ông là chính những lời ông: “Hiểu thơ - trước hết là phải nghe thơ. Đọc thơ - nghĩa là nghe bằng mắt; nghe thơ - nghĩa là đọc bằng tai. Thơ phải khiêu khích người đọc, buộc người đọc phải lắng nghe – và nghe ra”.

Como quien oye llover 

Óyeme como quien oye llover, 
ni atenta ni distraída, 
pasos leves, llovizna, 
agua que es aire, aire que es tiempo, 
el día no acaba de irse, 
la noche no llega todavía, 
figuraciones de la niebla 
al doblar la esquina, 
figuraciones del tiempo 
en el recodo de esta pausa, 
óyeme como quien oye llover, 
sin oírme, oyendo lo que digo 
con los ojos abiertos hacia adentro, 
dormida con los cinco sentidos despiertos, 
llueve, pasos leves, rumor de sílabas, 
aire y agua, palabras que no pesan: 
lo que fuimos y somos, 
los días y los años, este instante, 
tiempo sin peso, pesadumbre enorme, 
óyeme como quien oye llover, 
relumbra el asfalto húmedo, 
el vaho se levanta y camina, 
la noche se abre y me mira, 
eres tú y tu talle de vaho, 
tú y tu cara de noche, 
tú y tu pelo, lento relámpago, 
cruzas la calle y entras en mi frente, 
pasos de agua sobre mis párpados, 
óyeme como quien oye llover, 
el asfalto relumbra, tú cruzas la calle, 
es la niebla errante en la noche, 
como quien oye llover 
es la noche dormida en tu cama, 
es el oleaje de tu respiración, 
tus dedos de agua mojan mi frente, 
tus dedos de llama queman mis ojos, 
tus dedos de aire abren los párpados del tiempo, 
manar de apariciones y resurrecciones, 
óyeme como quien oye llover, 
pasan los años, regresan los instantes, 
¿oyes tus pasos en el cuarto vecino? 
no aquí ni allá: los oyes 
en otro tiempo que es ahora mismo, 
oye los pasos del tiempo 
inventor de lugares sin peso ni sitio, 
oye la lluvia correr por la terraza, 
la noche ya es más noche en la arboleda, 
en los follajes ha anidado el rayo, 
vago jardín a la deriva 
entra, tu sombra cubre esta página.




HAI THÂN THỂ


Hai thân thể đối mặt nhau
Như hai con sóng bạc đầu
Và đêm là biển cả.

Hai thân thể đối mặt nhau

Đôi khi là hai hòn đá
Và đêm là sa mạc hoang vu. 

Hai thân thể đối mặt nhau

Đôi khi là hai bộ rễ
Đêm đêm vấn vít vào nhau.

Hai thân thể đối mặt nhau

Đôi khi là hai con dao
Và đêm đêm sấm chớp. 

Hai thân thể đối mặt nhau

Đôi khi là hai ngôi sao
Rơi trong một bầu trời rỗng. 

Dos cuerpos 


Dos cuerpos frente a frente 

son a veces dos olas 
y la noche es océano. 

Dos cuerpos frente a frente 

son a veces dos piedras 
y la noche desierto. 

Dos cuerpos frente a frente 

son a veces raíces 
en la noche enlazadas. 

Dos cuerpos frente a frente 

son a veces navajas 
y la noche relámpago. 

Dos cuerpos frente a frente 

son dos astros que caen 
en un cielo vacío.


BÊN BIỂN

Hình thù của sóng ra sao?
Sóng nhào nặn mình, lấp lóa
Sóng rì rào, mệt lử
Lên con sóng khác xô vào
Sự chuyển động – là hình thù của sóng.

Biển không thể nào khao khát
Biển trăn trở đến bình minh
Trên chiếc giường bằng đá của mình
Khát khao gió, rồi biển chết.


Frente al mar



¿La ola no tiene forma? 
En un instante se esculpe 
y en otro se desmorona 
en la que emerge, redonda. 
Su movimiento es su forma. 


Las olas se retiran 
?ancas, espaldas, nucas? 
pero vuelven las olas 
?pechos, bocas, espumas?. 


Muere de sed el mar. 
Se retuerce, sin nadie, 
en su lecho de rocas. 
Muere de sed de aire.


VE VUỐT

Bàn tay anh
Vén tung bức màn trên cơ thể của em
Mặc vào cho em một vẻ trần trụi mới
Mở ra những thân thể trong thân thể của em.


Bàn tay anh
Bày đặt cho em một thân thể mới.


Palpar 


Mis manos 

abren las cortinas de tu ser 
te visten con otra desnudez 
descubren los cuerpos de tu cuerpo 

Mis manos 

inventan otro cuerpo a tu cuerpo.



ĐƯỜNG PHỐ


Trên một con phố dài và yên lặng.
Tôi đi trong bóng đêm và tôi ngã xuống
rồi lại đứng lên, mù quáng cả bàn chân
những chiếc lá thì khô, đá thì câm nín
và dường như có ai đó bước sau lưng
tôi ngừng – hắn cũng ngừng. Tôi chạy –
hắn cũng chạy. Nhìn lại: chẳng có ai. 
Không có lối ra, bóng tối khắp nơi
chẳng có ai, chỉ mình tôi vùng vẫy
chỉ mình tôi, trước mặt là đường phố
nơi dường như tôi theo gót một người
người này vấp ngã rồi liền đứng dậy
nhìn sang tôi và nói: chẳng có ai.

La calle


Es una calle larga y silenciosa. 

Ando en tinieblas y tropiezo y caigo 
y me levanto y piso con pies ciegos 
las piedras mudas y las hojas secas 
y alguien detrás de mí también las pisa: 
si me detengo, se detiene; 
si corro, corre. Vuelvo el rostro: nadie. 
Todo está oscuro y sin salida, 
y doy vueltas y vueltas en esquinas 
que dan siempre a la calle 
donde nadie me espera ni me sigue, 
donde yo sigo a un hombre que tropieza 
y se levanta y dice al verme: nadie.


VIẾT BẰNG MỰC XANH


Bằng mực xanh tôi tạo ra rừng, khu vườn, đồng cỏ
và chiếc lá, nơi con chữ hát lên
tôi tạo những lời – là những cây xanh
và những câu – là những vì tinh tú. 

Hãy để lời anh rơi trên cơ thể màu trắng của em

như cơn mưa lá rơi trên đồng tuyết trắng
như dây thường xuân leo quanh bức tượng
như trang giấy này viết bởi mực xanh.  

Cho lời rơi trên tay, trên ngực và trên cổ

trên trán em như biển trong xanh
rơi trên mái tóc có màu hạt dẻ
và hàm răng cắn cọng cỏ thơm nồng. 

Thân thể em như cây cối mùa xuân

được trang điểm bằng mực xanh anh đó.
Em hãy nhìn vào bầu trời sáng tỏ
trong hình xăm của những ngôi sao xanh.

Escrito con tinta verde 


La tinta verde crea jardines, selvas, prados, 

follajes donde cantan las letras, 
palabras que son árboles, 
frases que son verdes constelaciones. 

Deja que mis palabras, oh blanca, desciendan y te cubran 

como una lluvia de hojas a un campo de nieve, 
como la yedra a la estatua, 
como la tinta a esta página. 

Brazos, cintura, cuello, senos, 

la frente pura como el mar, 
la nuca de bosque en otoño, 
los dientes que muerden una brizna de yerba. 

Tu cuerpo se constela de signos verdes 

como el cuerpo del árbol de renuevos. 
No te importe tanta pequeña cicatriz luminosa: 
mira al cielo y su verde tatuaje de estrellas.


NƯỚC ĐÊM


Đêm với đôi mắt của ngựa lo lắng trong đêm
đêm với đôi mắt của nước đang ngủ trên đồng
trong đôi mắt em – con ngựa đang lo lắng
và nước bí huyền trong đôi mắt của em. 

Mắt của nước đêm

mắt của nước giếng
mắt của giấc mơ sông. 

Sự tĩnh lặng và sự cô đơn

giống như hai con thú nhỏ nhìn trăng
và uống từ đôi mắt em đó
uống từ vùng nước của đêm. 

Nếu em mở mắt xem

thì đêm mở cửa của xạ hương 
vào vương quốc bí huyền của nước
chảy từ nơi tâm điểm của bóng đêm. 

Còn nếu em nhắm đôi mắt của mình

thì dòng sông tĩnh lặng tràn ngập từ bên trong
em đối với anh tối tăm và xa vắng
đêm sẽ ngập tràn khoảng trống giữa hồn em.

Agua nocturna


La noche de ojos de caballo que tiemblan en la noche,

la noche de ojos de agua en el campo dormido,
está en tus ojos de caballo que tiembla,
está en tus ojos de agua secreta.

Ojos de agua de sombra,

ojos de agua de pozo,
ojos de agua de sueño.

El silencio y la soledad,

como dos pequeños animales a quienes guía la luna,
beben en esos ojos,
beben en esas aguas.

Si abres los ojos,

se abre la noche de puertas de musgo,
se abre el reino secreto del agua
que mana del centro de la noche.

Y si los cierras,

un río, una corriente dulce y silenciosa,
te inunda por dentro, avanza, te hace oscura:
la noche moja riberas en tu alma. 


GIÓ, ĐÁ VÀ NƯỚC NGUỒN

Tặng Roger Caillois

Nước chảy làm mòn đá
gió thổi dạt nước nguồn
đá biết cách giữ gió.
Gió, đá và nước nguồn. 

Gió làm tan cả đá
đá – ly đựng nước nguồn
nước chảy ra là gió.
Gió, đá và nước nguồn. 

Gió hát trong cơn giông
nước thì thầm chuyển động
đá đứng yên, im lặng. 
Gió, đá và nước nguồn.

Giống nhau mà lại khác:
giữa những tên trống không
xuất hiện rồi biến mất
gió, đá và nước nguồn. 

Viento, agua, piedra

A Roger Caillois

El agua horada la piedra,
el viento dispersa el agua,
la piedra detiene al viento.
Agua, viento, piedra.

El viento esculpe la piedra,
la piedra es copa del agua,
el agua escapa y es viento.
Piedra, viento, agua.

El viento en sus giros canta,
el agua al andar murmura,
la piedra inmóvil se calla.
Viento, agua, piedra.

Uno es otro y es ninguno:
entre sus nombres vacíos
pasan y se desvanecen
agua, piedra, viento.


CÔ BÉ

Bạn gọi tên “cây” phải không cô bé.
Và cây lớn lên chầm chậm, lá đầy tràn
và tràn ngập cả một bầu không khí
chói lóa mắt ta bởi một màu xanh
cho đến khi mắt ta chưa thành xanh như thế. 

Bạn gọi tên “bầu trời” phải không cô bé.
Thì có những làn mây trắng giữa trời xanh
và ánh sáng trong buổi bình minh
vào con tim của ta hỏi nhỏ
một khi tim chưa thành một khoảng trời trong.

Bạn gọi tên “nước” phải không cô bé.
Và dòng nước chảy mà ta không biết từ đâu
tưới lên khắp mặt đất đen màu
bông hoa nở ra sáng ngời trên lá
và chuyển đổi ta thành hơi ẩm không màu. 

Em không nói gì phải không cô bé.
Từ sự im lặng nảy sinh
ra cuộc sống
trên sóng nhạc màu vàng
trên con sóng triều dâng
đưa chúng ta lên đỉnh
rồi đưa ta trở lại với chính mình. 

Cô bé ơi, em đưa tôi lên, làm tôi hồi sinh!
Con sóng tận cùng, muôn đời, không giới hạn!

Niña

Nombras el árbol, niña. 
Y el árbol crece, lento y pleno, 
anegando los aires, 
verde deslumbramiento, 
hasta volvernos verde la mirada. 

Nombras el cielo, niña. 
Y el cielo azul, la nube blanca, 
la luz de la mañana, 
se meten en el pecho 
hasta volverlo cielo y transparencia. 

Nombras el agua, niña. 
Y el agua brota, no sé dónde, 
baña la tierra negra, 
reverdece la flor, brilla en las hojas 
y en húmedos vapores nos convierte. 

No dices nada, niña. 
Y nace del silencio 
la vida en una ola 
de música amarilla; 
su dorada marea 
nos alza a plenitudes, 
nos vuelve a ser nosotros, extraviados. 

¡Niña que me levanta y resucita! 
¡Ola sin fin, sin límites, eterna!


TÌNH ANH EM

Gửi Claudio Ptolomeo* 

Tôi là người: tôi chẳng thể sống lâu 

mà đêm thì mênh mông vô tận. 
Nhưng tôi nhìn lên trời cao: 
những ngôi sao đang viết. 
Tôi không biết, nhưng mà tôi hiểu được
bởi vì tôi cũng đang viết đây này
và chính ngay trong giây phút này đây 
có ai đấy đem tên tôi ra gọi.
______
* Claudio Ptolomeo (khoảng 100 – 170) – nhà thiên văn học, nhà toán học người Hy Lạp sống và làm việc ở Alexandria, Ai Cập. 

Hermandad


Soy hombre: duro poco

y es enorme la noche.
Pero miro hacia arriba:
las estrellas escriben.
Sin entender comprendo:
también soy escritura
y en este mismo instante
alguien me deletrea.


ANH RẢO BƯỚC TRÊN ĐƯỜNG


Anh rảo bước trên đường phố này

mà tiếng bước chân ai
lại vang lên ở đường phố nọ.

Và ở đó

anh nghe thấy mình
đang rảo bước trong đêm
nơi chỉ có 
chính xác một màn sương.

Derek Walcott - Giải Nobel Văn học năm 1992


Derek Walcott (23 tháng 1 năm 1930 – 17 tháng 3 năm 2017) – nhà thơ, nhà soạn kịch Saint Lucia đoạt giải Nobel Văn học 1992 “vì những sáng tác giàu chất thơ, mang đậm tính lịch sử, là kết quả của một nền văn hóa trong sự đa dạng của nó”. Được thừa hưởng sự kết hợp nền văn hóa Caribe cùng với di sản thuộc địa Anh, Derek Walcott trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của thi ca đương đại. Walcott cũng nổi tiếng vì niềm đam mê đi du lịch đến các quốc gia trên thế giới. Ông chia tách thời gian của mình giữa New York, Boston và St Lucia, kết hợp sự ảnh hưởng của các khu vực khác nhau vào tác phẩm của mình. 

Tiểu sử:
Derek Walcott sinh ngày 23-01-1930 ở Castries, đảo Saint Lucia. Học trường cao đẳng St. Mary's College ở quê hương Saint Lucia. Tốt nghiệp Đại học West Indies ở Jamaica năm 1953, D. Walcott làm giáo viên trường phổ thông rồi phóng viên của các tờ báo “Public Opinion” và “Trinidad Guardian”. Năm 18 tuổi in 25 bài thơ bán trên đường phố Castries nhưng thực sự nổi tiếng với tập thơ Đêm xanh (1962). Với tập thơ này D. Walcott được đánh giá là nhà thơ của xứ thuộc địa đã sáng tạo ra tác phẩm ngang hàng với các nhà thơ nổi tiếng nhất ở chính quốc. Thơ của D. Walcott chủ yếu được viết bằng tiếng Anh, đôi khi mang sắc thái ngôn ngữ địa phương. Ngoài những tác phẩm thơ, ông còn nổi tiếng trong lĩnh vực sáng tác kịch, trong đó phải kể đến vở Lễ tưởng niệm và vở kịch câm (1980). Một số vở kịch của ông được viết bằng thơ. Năm 1959 ông thành lập nhà hát Trinidad và viết nhiều vở kịch cho nhà hát này.

D. Walcott đi du lịch rất nhiều nước nhưng các tác phẩm của ông mang nặng các yếu tố của xã hội Jamaica với sự du nhập văn hóa từ Châu Phi, Châu Á, Châu Âu. Trong nhiều năm ông sống ở Trinidad, dạy văn học và cách viết văn sáng tạo ở đại học Boston. D. Walcott từ chối danh hiệu công dân Anh quốc và nhập quốc tịch Saint - Lucia - một quốc đảo có đường kính 25 dặm với gần 25.000 người dân. Cho đến nay ông đã xuất bản hơn 40 tập thơ và kịch. Kinh nghiệm sống tại một đất nước thuộc địa của Anh đã có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc đời và sáng tác của ông. Nhà thơ Mỹ gốc Nga Brodsky (giải Nobel 1987) là người bạn gần gũi thân thiết của D. Walcott đã viết về quê hương xứ sở của ông như sau: "Colombo đã tìm ra nó, người Anh đã chiếm nó làm thuộc địa và Derek Walcott làm cho nó trở thành bất tử."

Năm 1981, D. Walcott được nhận giải "Giành cho các thiên tài" 250.000 USD của quỹ John và Katrin Makartuz. Năm 1992 ông nhận giải Nobel vì đã sáng tạo nên những mẫu mực thơ ca tuyệt vời của xứ Caribe.


Derek Walcott qua đời ở nhà riêng tại Cap Estate, St Lucia, ngày 17 tháng 3 năm 2017, thọ 87 tuổi. Tang lễ cử hành ngày 25 tháng 3 tại nhà thờ Basilica of the Immaculate Conception và mai táng tại Morne Fortune. 

Tác phẩm:
- 25 bài thơ (25 poems, 1948), thơ.
- Văn mộ chí cho chàng trai trẻ (Epitaph for the young, 1949), thơ.
- Đêm xanh. Thơ 1948-1960 (In a green night. Poems 1948- 1960), thơ.
- Người đắm tàu và những bài thơ khác (The castaway and other poems, 1965) thơ.
- Vịnh và những bài thơ khác (Gulf and other poems, 1969), thơ.
- Cuộc đời khác (Another life, 1973), thơ.
- Nho biển (Sea grapes, 1978), thơ.
- Vương quốc Star-Apple (The Star-Apple kingdom, 1979), thơ.
- Lễ tưởng niệm và kịch câm (Remember and pantomime, 1980), kịch.
- Người lữ hành may mắn (The fortunate traveller, 1981), thơ.
- Giữa mùa hè (Midsummer, 1984), thơ.
- Giấc mơ trên đồi khỉ và những vở kịch khác (Dream on monkey mountain and other plays, 1970), kịch.
- Thịt bò, không thịt gà (Beef, no chicken, 1985), kịch.
- Chúc thư Arkansas (The Arkansas testament, 1987), thơ.
- Omeros (Omeros, 1990), thơ. 
- Odyssey (The Odyssey, 1993), kịch.
- Đứa con phóng đãng (The prodigal, 2004), thơ.


Một số bài thơ



TÌNH YÊU SAU MỘT TÌNH YÊU

Rồi sẽ đến một ngày
Khi nhìn vào gương
Với chính mình, em cười mỉm.
Rồi sẽ đến một ngày
Con tim em hồi hộp
Khi nghe tiếng bàn chân em bước
Bên ngưỡng cửa nhà em.

Thì em hãy mời vào nhà chính bản thân mình
Thết rượu vang, bánh mì và trả lại con tim
Và hãy nhận về cho mình – một người quen xa lạ
Người ấy với em chung thủy
Yêu em suốt cả cuộc đời
Người ấy vì em mà mệt mỏi rã rời.

Em hãy cất khỏi chiếc bàn chân dung của những kẻ xa vời
Những bức thư tình, những bài thơ tuyệt vọng…
Rồi ngồi xuống bên bàn. Mở tiệc mừng long trọng
Mừng cho bản thân mình. Mừng cho cuộc đời em.


Love After Love


The time will come

when, with elation
you will greet yourself arriving
at your own door, in your own mirror
and each will smile at the other’s welcome,

and say, sit here. Eat.

You will love again the stranger who was your self.
Give wine. Give bread. Give back your heart
to itself, to the stranger who has loved you

all your life, whom you ignored

for another, who knows you by heart.
Take down the love letters from the bookshelf,

the photographs, the desperate notes,

peel your own image from the mirror.
Sit. Feast on your life.



KHÔNG CẦN GÌ NGOÀI LÒNG CHÂN THẬT

Tôi sống gần bên bờ biển
Một mình. Không vợ, không con
Và bằng rất nhiều con đường
Để đi và đến.


Ngôi nhà thấp bên biển
Cửa sổ bao giờ cũng mở toang
Về phía biển thân quen.


Không ai có thể chọn cho mình công việc
Ta chỉ là thành qủa của những việc ta làm.
Năm tháng đi qua, ta quên điều lo sợ


Nhưng còn lại khát khao được vượt qua
Tình yêu – như tảng đá
Rơi vào đáy biển bao la


Bây giờ tôi không còn đòi hỏi gì ở thơ ca
Ngoài lòng chân thật
Không sự vinh quang, không thương xót


Nếu vợ lặng im thì có thể cùng ngồi bên bờ biển với nhau
Vách đá vẫn còn giữa những con sóng bạc đầu
Sóng sẽ mang lên bờ rác rưởi của những gì hèn kém


Và tôi phải quên đi thói quen cảm nhận
Quên đi tài năng của mình
Nhưng điều này còn khó khăn hơn
Là nhận về cho mình cuộc sống.


Winding Up


I live on the water,

alone. Without wife and children,
I have circled every possibility
to come to this:

a low house by grey water,

with windows always open
to the stale sea. We do not choose such things,

but we are what we have made.

We suffer, the years pass,
we shed freight but not our need

for encumbrances. Love is a stone

that settled on the sea-bed
under grey water. Now, I require nothing

from poetry but true feeling,

no pity, no fame, no healing. Silent wife,
we can sit watching grey water,

and in a life awash

with mediocrity and trash
live rock-like.

I shall unlearn feeling,

unlearn my gift. That is greater
and harder than what passes there for life.



CHÂN DUNG TỰ HỌA

Sự cô đơn của Van Gogh
Sự cùng quẫn của Van Gogh
Sự khủng khiếp của Van Gogh.

Ông nhìn vào gương
và bắt đầu vẽ mình. 

Trong gương không ai cả
ngoài Vincent Van Gogh.
Điều này thì không đủ. 

Ông cắt đứt tai của mình.
Rồi ông nhìn vào gương:
đấy là Vincent Van Gogh
với tai quấn băng. 

Điều này giống bức chân dung
ông cố gắng ở lại đấy
nhưng trước hết ra khỏi là cần 

ông đến từ sự giảm thấp
hơn cả sự kinh hoàng
bởi một quá trình cô đơn. 

khi gương phản chiếu một điều
không vinh quang, chẳng nỗi đau
chẳng không, chẳng có

không có thể, hoặc không một lúc nào đó
trên khung vẽ chảng có ai
không còn Vincet Van Gogh

sợ hãi, cô đơn, phờ phạc
chỉ điều bịa đặt hoàn toàn. 
Và đó là bản chất. 


Self Portrait


The loneliness of Van Gogh.. 

The humbleness of Van Gogh.. 
The terror of Van Gogh.

He looks into a mirror,

and begins to pait himself.

He discovers nobody there

but, Vicent Van Gogh.
This is not enough.

He cuts off an ear.

He looks into a mirror:
there is Vincet Van Gogh
with a bandaged ear. 

It resembles his portrait,

he is attempting to remain,
fist, he must disappear,

he will arrive by reductions

beyond any more terror
by a lonely process

when the mirror will proffer

neither fame nor pain
neither or nor yea

or maybe, or one, or

no. Nobody there
not Vincent Van Gogh,

humble, frightened and lonely,

only
a fiction. An essence. 



NHO BIỂN

Cánh buồm hướng về ánh sáng
mệt mỏi vì những hòn đảo
con thuyền bơi trên biển Ca-ri-bê

đi về nhà, có lẽ đấy là Ô-đi-xê
đang bơi thuyền trên biển Aegea
đấy là người chồng, người bố

nỗi buồn, dưới chùm nho chua xương xẩu
về người tình phụ, và tên nàng Nausicaa 
còn nghe trong tiếng kêu của từng chú hải âu. 

Điều này không mang lại bình yên. Cuộc chiến đã lâu
giữa đam mê và trách nhiệm
không kết thúc bao giờ với kẻ lữ hành trên biển

và cả với kẻ lữ hành đang ở trên bờ
đang mang giày dép để chuẩn bị về nhà
từ khi Tơ-roa khóc lên trong lửa cuối. 

và kẻ khổng lồ mù ném đá
làm sóng trào, xuất hiện những vần thơ
những con sóng rã rời trên biển Ca-ri-bê.

Các nhà thơ cổ điển có thể an ủi. Nhưng chưa đủ. 

== = = =========
*Nausicaa – con gái của vua Alcinous và nữ hoàng Phaeacia (Scheria) nhân vật nữ trong trường ca Ô-đi-xê của Homer. Nausicaa yêu Ô-đi-xê và muốn trở thành vợ chàng nhưng Ô-đi-xê vì nghĩa lớn đã bỏ hòn đảo của nàng để lên đường. Sau này Nausicaa trở thành vợ của con trai Ô-đi-xê. 

Sea Grapes 

That sail which leans on light,
tired of islands,
a schooner beating up the Caribbean

for home, could be Odysseus,
home-bound on the Aegean;
that father and husband's

longing, under gnarled sour grapes, is
like the adulterer hearing Nausicaa's name
in every gull's outcry.

This brings nobody peace. The ancient war
between obsession and responsibility
will never finish and has been the same

for the sea-wanderer or the one on shore
now wriggling on his sandals to walk home,
since Troy sighed its last flame,

and the blind giant's boulder heaved the trough
from whose groundswell the great hexameters come
to the conclusions of exhausted surf.

The classics can console. But not enough. 



ODDJOB, A BULL TERRIER

Bạn chờ đợi một nỗi buồn
thì một nỗi buồn khác đến.
Nó với tiết trời không giống
chỉ đơn giản
bạn còn thiếu sự chuẩn bị thôi mà. 
Chúng ta vẫn thường lo
cho người bạn đường, cho người phụ nữ
cho người bạn của ta
cho đứa con thơ
và cho con chó
ta nhìn ra biển và suy nghĩ
chắc trời sẽ đổ mưa
và ta chuẩn bị đón cơn mưa. 
Bạn không hề nhìn ra
mối liên hệ của ánh mặt trời
đổi thay trên ngọn trúc đào màu sậm
trong khu vườn bên biển
và màu vàng từ cây cọ mà ra
Bạn cũng chẳng nhìn ra
mối liên hệ của giọt nước mưa
trên da thịt bạn
với tiếng rên của con chó trong nhà.
bạn không sợ gì tiếng sấm
sự sẵn sàng là tất cả thôi mà
những gì theo sau bàn chân bạn
muốn nói với bạn rằng
sự im lặng – đó là tất cả
nó còn sâu hơn cả sự sẵn sàng
nó sâu như đại dương
nó sâu như đất
nó sâu như tình. 

Sự lặng im
còn mạnh hơn tiếng sấm
làm cho ta sâu, làm ta mất giọng
như loài vật không biết nói về tình
ta làm sao nếu như nó trở thành
một thứ gì không thể tả
nhưng mà ta phải nói về tình
trong tiếng khóc thầm
trong nước mắt
bằng giọt mưa rơi trên mí mắt
không gọi tình yêu đúng tên sự vật
sự im lặng của người đã khuất
sự im lặng về tình ở nơi sâu thẳm nhất
đấy cũng là một sự im lặng thôi mà
và liệu chúng ta có biết mang cho
từng con thú, đứa con, người bạn, người phụ nữ
đấy cũng là một thứ tình yêu như thế
đấy là phước trời ban
sâu nhất nhờ mất mát
đấy là phước trời ban, đấy là phước trời ban. 


Oddjob, a Bull Terrier 


You prepare for one sorrow,

but another comes.
It is not like the weather,
you cannot brace yourself,
the unreadiness is all.
Your companion, the woman,
the friend next to you,
the child at your side,
and the dog,
we tremble for them,
we look seaward and muse
it will rain.
We shall get ready for rain;
you do not connect
the sunlight altering
the darkening oleanders
in the sea-garden,
the gold going out of the palms.
You do not connect this,
the fleck of the drizzle
on your flesh,
with the dog’s whimper,
the thunder doesn’t frighten,
the readiness is all;
what follows at your feet
is trying to tell you
the silence is all:
it is deeper than the readiness,
it is sea-deep,
earth-deep,
love-deep.

The silence

is stronger than thunder,
we are stricken dumb and deep
as the animals who never utter love
as we do, except
it becomes unutterable
and must be said,
in a whimper,
in tears,
in the drizzle that comes to our eyes
not uttering the loved thing’s name,
the silence of the dead,
the silence of the deepest buried love is
the one silence,
and whether we bear it for beast,
for child, for woman, or friend,
it is the one love, it is the same,
and it is blest
deepest by loss
it is blest, it is blest.

SỰ KẾT THÚC

Mọi thứ không hề bùng nổ

chúng chỉ tàn lụi, mờ dần

như ánh mặt trời mờ trên da thịt

như bọt biến nhanh vào cát

ngay cả tia chớp của ái tình

không kết thúc bằng tiếng sấm vang lên

bông hoa chết cùng với âm thanh

cũng lụi tàn y như là thân xác

từ mồ hôi của đá bọt

trùm lên mọi thứ giữa thiên nhiên

một khi chúng ta còn sống trên trần

phải chịu sự im lặng bao quanh đầu của Beethoven. 

Endings

Things do not explode,

they fail, they fade,

as sunlight fades from the flesh,

as the foam drains quick in the sand,

even love’s lightning flash

has no thunderous end,

it dies with the sound

of flowers fading like the flesh

from sweating pumice stone,

everything shapes this

till we are left

with the silence that surrounds Beethoven’s head. 



JOSEPH BRODSKY NÓI VỀ DEREK WALCOTT

Năm 1992, khi Derek Walcott đoạt giải Nobel Văn học, báo chí phương Tây hầu như đều trích dẫn lời của Brodsky: “Đó là nhà thơ hay nhất viết bằng tiếng Anh hiện tại”. Đây không chỉ là chuyện một nhà thơ Nobel khen một nhà thơ Nobel khác, không chỉ vì họ là những người bạn thân của nhau… mà những lời này mang tính dự báo và trở thành hiện thực. Joseph Brodsky viết những lời này trước đó 10 năm, sau đó in trong cuốn “Ít hơn một”(Less than one, 1986).

Derek Walcott sinh ở Saint Lucia (thuộc địa Anh), một hòn đảo nhỏ trong quần đảo Antilles ở vùng biển Caribê. Năm 1979, khi Saint Lucia tuyên bố độc lập Walcott đổi từ quốc tịch Anh - đất nước mặt trời không bao giờ lặn - thành công dân Saint Lucia. Quốc đảo bé nhỏ này, xét về mặt giải thưởng Nobel là nhất thế giới, dù tính theo đầu người hay diện tích cũng vậy. Derek Walcott là người thứ hai. Arthur Lewis (1915-1991) người đầu tiên của Saint Lucia đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1979.

Một hòn đảo có diện tích 616 km2 với hơn 150 ngàn dân (năm 2000), thu nhập quốc dân chủ yếu dựa vào nguồn xuất khẩu chuối mà có một người đoạt giải Nobel Kinh tế, mới nghe qua, ta thấy không thuyết phục. (Tất nhiên là mới nghe qua vì nếu xét về những đóng góp hay xem qua một số tác phẩm của ông như: Những nguyên tắc của kinh tế kế hoạch – Principles of economic planning, 1949; Lý thuyết tăng trưởng kinh tế – Theory of economic growth, 1955; Quy hoạch sự phát triển – Development planning, 1966; Phương thức phát triển – The Development process, 1970; Những nhân tố động lực của tăng trưởng kinh tế – Dynamic factors in economic growth, 1974 vv… thì sẽ thấy rằng Viện Hàn lâm khoa học hoàng gia Thụy Điển có lý).

Dù giải Nobel Kinh tế có thuyết phục hay không nhưng thơ ca của giải Nobel Văn học thì không một ai nghi ngờ. Đọc những lời trò chuyện của Brodsky ta sẽ càng hiểu thêm về điều này. 

- Anh có một thói quen thật là hay - lẽ ra đi kết bạn với những "người đoạt giải Nobel" thì anh kết bạn với những kẻ mà sau đó trở thành "người đoạt giải Nobel".


- Quả là tôi vui khủng khiếp. Vui vì đó chính là Derek.

- Các anh làm quen với nhau ra sao?

- Năm 76 hay 77 gì đấy. Có nhà thơ Mỹ - Robert Lowell là chỗ thân quen với tôi. Một ngày đẹp trời, hai chúng tôi ngồi tranh luận về chuyện - ai đáng gì trong thơ ca viết bằng tiếng Anh. Robert Lowell đưa cho tôi xem tập thơ của Derek Walcott, đó là bài thơ dài "Star - Apple Kingdom", nghe như là "Vương quốc Quả Táo – Ngôi Sao", một cách dịch ngớ ngẩn. Tôi có ấn tượng mạnh với tác phẩm này. Mặt khác thì tôi vẫn nghĩ: bài thơ hay thật đấy nhưng ai mà chả có thơ hay.
Sau đó một thời gian R. Lowell chết, trong đám tang anh ấy tôi gặp D. Walcott lần đầu. Và, hoá ra là chúng tôi cùng chung một nhà xuất bản - Farrar, Straus & Giroux. Nếu bây giờ thêm D. Walcott nữa thì nhà xuất bản này in sách của 20 nhà văn đoạt giải Nobel. Thế rồi tôi lấy được tác phẩm của Walcott ở nhà xuất bản và hiểu ra rằng bài thơ dài nọ, như người ta vẫn hay nói, không phải là một thành công riêng biệt, không phải là ngoại lệ. Tôi đặc biệt thích tác phẩm "Another Life", (Cuộc đời khác).
Anh biết không, một nền văn học nào cũng vậy, đặc biệt là trong một giai đoạn nhất định, có những tác phẩm nền. Ở ta (Nga- ND) đó là "Trừng phạt" của Blok, sau đó là "Trung uý Smith" của Pasternak, hoặc còn những tác phẩm khác. Đó là tác phẩm tạo nên cho thơ ca một thời tiết mới. Cũng vậy "Cuộc đời khác" - một địa phận mới như vậy. Không hẳn về địa phận được mô tả trong tác phẩm mà cái khác - là tâm lý, là địa lý. Và phương pháp mô tả cũng rất đặc thù. Sau đó, năm 78 hay 79 gì đó cả Walcott và tôi đều là thành viên ban giám khảo của tạp chí "Văn học thế giới hôm nay", một tạp chí xuất bản ở Oklahoma (Mỹ – ND) và cứ hai năm một lần tổ chức trao giải thưởng, Eugnio Montale, Elizabeth Bishop và một số người khác được giải thưởng này. Ban giám khảo gồm 13 người và mỗi người đưa ra ứng cử viên của mình. Tôi đề cử Milosz còn Walcott đề cử Naipaul, gần như là đồng hương. Tiện thể, nghe nói ở Stockholm họ cũng sát điểm nhau. Walcott tranh thủ được thêm và họ cũng là những người bạn lớn.

- Giờ thì vùng Caribe còn lâu mới được giải Nobel, Naipaul dù còn trẻ hơn Walcott hai tuổi nhưng cũng đã tròn sáu chục.


- Nhưng đấy là trong ngoặc. Còn ở Oklahoma về đích - ở đó theo nguyên tắc Olympic - là Milosz và Naipaul, cuối cùng Milosz được. Tôi hiểu là Walcott nhường ứng cử viên của mình cho ứng cử viên của tôi và hỏi anh ta tại vì sao? Walcott trả lời rằng "tôi nhường không theo nguyên nhân có thể hình dung. Vấn đề không ở chỗ là Đông Âu, là chủ nghĩa Quốc xã, là tai họa vv... Những gì hiện tại đang xảy ra ở quần đảo chúng tôi không kém gì tai họa của người Ba Lan hay người Do Thái, đặc biệt là về phương diện đạo đức. Mà những tiêu chuẩn hoàn toàn khác: tôi thích rằng sau khi đọc - dù là thơ hay văn xuôi - tôi nghe thấy một sự ngân vang. Ngân vang của hình cầu, nếu tiện. Thế mà ở Naipaul tôi không cảm thấy điều này, còn ở Milosz thì có". Từ đó, từ cái dạo Oklahoma ấy hai chúng tôi trở nên những người bạn vô cùng thân thiết.

- Anh có dùng chính cái từ này? "Druk", dù sao cũng thân thiết hơn "Friend" chứ. (Druk: bạn - tiếng Nga; Friend: bạn - tiếng Anh. ND)


- Anh biết không, đó là một con người rất nồng nhiệt. Nghĩa là từ anh ấy có một luồng xạ khí. Hoàn toàn không phải như chuyện trong nhà thờ ở Kiev mà thực tế là có một con sóng ấm áp, vâng. Khi gần anh ấy tôi luôn cảm thấy điều này. Anh ta như người vừa sưởi ngoài nắng - ta nên nhớ là anh ấy người ở đâu.

- Tôi cũng có một lần cùng hội với Walcott và tôi nhớ rất rõ một điều xung quanh anh ấy luôn có tiếng cười.


- Quả là như vậy. Anh ấy có đầu óc hài hước rất kỳ lạ. Mà sống động khủng khiếp, lúc nào cũng có một cái gì đó mới trong đầu. Nói chung là chuyện anh ấy nằm, ốm, buồn chán, uể oải thì tôi không hề nhớ. Hai mươi năm nay đó là người bạn thân nhất của tôi trong số các nhà văn tiếng Anh. Chúng tôi cùng có mặt trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, cùng ở trong nửa bán cầu này.

- Trong tất cả những bài viết về việc trao giải Nobel đều trích những lời của anh: " nhà thơ hay nhất viết bằng tiếng Anh"...


- Quả là tôi đã nói như vậy. Mà người ta buộc phải trích dẫn tôi là vì tôi viết về anh ấy rất nhiều. Chẳng phải vì điều này mà tôi tự hào... Mặc dù không, tôi tự hào mình là ai? Tôi tự hào, mà thậm chí, có thể khoe khoang điều này.

- Trong quyển "Ít hơn một" có bài về Walcott "The Sound of the Tide" (Tiếng sóng vỗ bờ), anh viết rằng Walcott - ngoài mọi trường phái. Đâu là ý nghĩa "nền" như anh thể hiện? Anh nói về những "địa phận mới" nào vậy?


- Trong bài này tôi nói phỏng theo Mandelshtam: "Đã một phần tư thế kỷ, kể từ ngày <... > tôi bơi vào thơ Nga". Walcott cũng bơi vào thơ Anh và bây giờ đã bơi đến. Anh ấy hay ở chỗ nào? Đó là phong cách cổ điển, không trái ngược với chủ nghĩa hiện đại mà hoà nhập với nó. Walcott làm thơ có vần điệu rất phong phú. Tôi nghĩ rằng, không ai gieo vần thơ bằng tiếng Anh hay hơn Walcott. Tiếp tục: thơ rất màu sắc, bởi vì màu sắc, thực tế là thông tin tâm hồn. Nếu nói về động vật thì đó là mimicry (bắt chước, mô phỏng) - điều này còn hơn là sự thích ứng, vâng? Sau tất cả những điều này là cả một câu chuyện dài - là một sự tiến hoá - còn nhiều hơn là lịch sử. Derek là nhà thơ thời Adam, có nghĩa là anh ấy đến từ thế giới nọ, nơi tất cả chưa được nghĩ ra, nơi tất cả chưa được đặt tên. Thế giới này có người ở chưa lâu lắm. Người phương Tây da trắng chưa khai hoá hết. Nơi này đa số dùng những khái niệm hãy còn chưa được nhận biết đầy đủ bằng kinh nghiệm và nhận thức.

- Có điều gì đó tương tự ta nhận ra trong hiện tượng tiểu thuyết Mỹ Latinh, nơi gần gũi với huyền thoại hơn là châu Âu hay bắc Mỹ đã được tinh luyện.


- Derek xét về chủng tộc là người da đen. Quả thực là trong máu anh ấy có trộn lẫn nhiều. Nhưng khi anh sinh ra là công dân của Liên hiệp Anh và là người da màu thì sẽ rơi vào tình trạng rất lạ lùng. Nếu môi trường hoạt động của anh là văn hoá thì sự lựa chọn sẽ rất hạn chế. Hoặc là đắm chìm trong hoài niệm về nguồn gốc không còn tồn tại vì chẳng còn chút truyền thống gì ngoài những lời truyền miệng. Hoặc là đi tìm nơi trú ẩn trong văn hoá của những người chủ. Trường hợp thứ nhất - dễ hơn, vì rằng ở đó chẳng có gì ngoài tình cảm.

- Và sau đó thì trở thành người số một. Tôi hồi trẻ đã tiếc rằng sao mình không là người của một dân tộc thiểu số phương bắc nào đấy: mới 30 tuổi đã có một tuyển tập tác phẩm.


- Trong mọi trường hợp, sự ủng hộ anh sẽ tìm ra cho mình và không cần suy nghĩ nhiều mà quan trọng là cần cảm nhận.

- Trong trường hợp thứ hai mà anh nói trên sự cạnh tranh, tất nhiên, hoàn toàn khác.


- Không đơn giản như vậy. Anh đang đi vào lịch sử văn hoá mà cần phải nắm vững và phải đấu tranh với nó. Thế giới này rộng lớn, có nhiều thứ đã được hình thành. Điều này có thể sẽ giẫm đạp lên. Đấy là chưa nói chuyện những đồng bào của anh vẫn thường xuyên trách móc rằng anh đã bán mình cho những người Bôn-sê-vích.

- Trong trường hợp này – cho những người Da trắng.


- Vâng, cho những người Da trắng. Cho nền văn hoá lớn. Nhưng tài năng mạnh mẽ như Walcott, cũng như Naipaul, họ không đến từ đâu cả và họ nắm vững không chỉ văn hóa Anh. Họ mong muốn tìm ra cho mình một chỗ đứng và một trật tự thế giới thay vì có được một chốn nương náu ở văn hóa Anh, xuyên qua nó và đi ra từ phía khác, trở thành những người xa lạ hơn trước khi vào.

- Họ không đo cao trình trong truyền thống mạnh mẽ mà chỉ tôi luyện và tăng cường sự đặc trưng của mình. Nghĩa là, trước đó sự đặc trưng này là thiên bẩm từ nguồn gốc xuất thân – sự ảnh hưởng của vùng Caribê, châu Phi, Ấn Độ – còn sau đó thì trở thành nhân cách thực sự. Nhưng nếu như Walcott và Naipaul viết bằng tiếng Anh thì trước hết có lợi cho người Da trắng chứ.


- Những người này đã khác. Và thế giới này đã khác. Nhờ có những người như Walcott, như Naipaul. Mà Derek nhận được nền giáo dục cổ điển Anh. Nền giáo dục cổ điển thuộc địa Anh.

- Tiện thể, cái đảo Saint Lucia này là một nơi rất kỳ lạ. Thu nhập tính theo đầu người chỉ bằng 1/10 của dân Mỹ mà người biết chữ là 90%, đấy là một tỉ lệ cao của thế giới.


- Derek học ở Đại học Đông Ấn, sau đó học tiếp ở Anh, nhiều con đường khác nhau. Nhưng lĩnh vực của anh ấy là thơ ca.

- Một công việc rất riêng tư. Nhưng mà Walcott còn là một nhà soạn kịch.


- Anh ấy viết kịch thơ bởi vì: a) say mê sân khấu và b) là để tạo việc làm cho nhiều người đồng hương tài năng của mình. Trong kịch anh ấy nhiều âm nhạc, rất sôi nổi còn say mê thì như kịch của Shakespeare. 

- Tôi cứ ngỡ rằng Derek Walcott là người đại diện toàn quyền của nhóm Thất tinh thời nay. Trước hết là người phù hợp nhất với những dòng của anh viết: “Nếu phải sinh ra trong đế chế thì tốt nhất là được sống ở bên bờ biển nơi tỉnh lẻ xa xôi”. Này là Walcott, Naipaul – từ những hòn đảo ở vùng biển Caribê. Một năm trước đó giải Nobel Văn học được trao cho Nadine Gordimer từ Nam Phi. Cũng ở Nam Phi có Coetzee, người mà anh nhiều lần gọi là một trong những nhà văn viết bằng tiếng Anh hay nhất. Có Salman Rushdie. Còn ở Stockholm nghe nói đang xét trao giải cho Seamus Heaney. Tất cả đều là văn xuôi và thơ ca bằng tiếng Anh và tất cả đều không phải người Anh, không phải người Mỹ, tất cả đều người ngoài. Điều gì xảy ra vậy?


- Xảy ra cái điều mà Yeats đã từng nói: “Trung tâm đã không còn giữ nổi”. Và quả là trung tâm đã không còn giữ nổi.

- Đế chế tốt đẹp lên bởi những đống hoang tàn?


- Không chỉ những đống hoang tàn mà còn là những vùng biên cương xa xăm. Mà vùng biên cương xa xăm hay một điều, có thể, là nơi kết thúc Đế chế, nhưng là nơi bắt đầu của thế giới còn lại. Và ở nơi biên cương xa xăm của Đế chế, trên một hòn đảo nhỏ trong biển Caribê có một người bắt đầu đọc Shakespeare và những người còn lại. Người ấy không nhìn thấy những người lính lê dương nhưng nhìn thấy sóng biển và những cây cọ, những cây dừa bên bờ biển như những cái mũ sắt của những người lính đổ bộ đã chết năm nào.

- Walcott viết rằng: “Biển là lịch sử của chúng tôi”. Và ở một chỗ khác: “Dân tộc tôi sinh ra trên biển, không tên gọi, chẳng có những chân trời". Còn anh, ở vùng tây-bắc của một Đế chế khác cũng có biển, cũng có ý nghĩa đầu tiên, nếu xét theo những câu thơ này:

Tôi sinh ra và lớn lên trong những đầm lầy Baltic
bên những con sóng bạc đầu ùa lên bờ cát từng đôi
giọng nói héo hon và tất cả những vần điệu từ đây
cuộn vào nhau, tựa như mái tóc xoăn đẫm ướt…


Nếu vùng biên cương xa xăm của Đế chế mà trung tâm “đã không còn giữ nổi”, Đế chế đang tan rã như Đế của ta, hay đã tan rã như Đế chế Anh, nếu tất cả đều tốt đẹp đến vậy thì liệu có nên chờ đợi điều bất ngờ từ những vùng biên cương xa xăm của nước Nga?


- Nên hy vọng một điều gì tương tự sẽ đến. Mặc dù những vùng biên cương xa xăm của ta không tách biệt với nhau về địa lý, mà là một lục địa toàn vẹn. Bởi thế không có cảm giác tách biệt hẳn với trung tâm. Mà theo tôi, cảm giác này này rất quan trọng. Những người nói tiếng Anh cám ơn địa lý vì có những hòn đảo này. Tuy nhiên, trường hợp với nước Nga để có những điều tương tự không ngoại trừ điều này.

- Tôi nghĩ rằng sự trẻ trung của nền văn hóa mà con người ở vùng biên cương của Đế chế mang trong mình cùng với truyền thống gắn liền với sự can đảm, nếu không nói là táo bạo. Ví dụ như Walcott cả gan viết cả thiên sử thi: 325 trang “Omeros” – cải biên “Iliat” và “Odyssey” theo kiểu Caribê. Sử thi trong thời đại của ta không còn phù hợp chăng?


- Không biết được. Đối với nhà văn – không hợp. Đối với bạn đọc – cũng không hợp.

- Tại sao sử thi hiện đại không tồn tại, hoặc hầu như không có?


- Là bởi vì ruột của ai cũng nhỏ cả. Là bởi vì ta vẫn thích những hình thức ngắn gọn hơn: tất cả đều tự nhiên thôi. Thời gian có ít, cả nhà văn lẫn bạn đọc. Và tất nhiên trong sử thi có chỗ lếu láo. Nhưng mà “Omeros” là tác phẩm thơ hay, đôi chỗ rất lạ kỳ. Nhưng “Cuộc đời khác” mới đúng là sử thi của Walcott.

- Và một câu hỏi truyền thống: Walcott có biết nhiều về văn học Nga không?


- Anh ấy biết nhiều qua những bản dịch sang tiếng Anh tác phẩm của Pasternak và Mandelstam và chịu sự ảnh hưởng của họ. Theo tôi biết được thì Walcott ở giữa hai nhà thơ kia. Walcott là nhà thơ dùng thủ pháp, chi tiết và điều này gần với Pasternak. Còn ở mặt khác – giọng teno tuyệt vọng của Mandelstam… Tôi nhớ lần ở Oklahoma, hai chúng tôi ngồi trò chuyện. Mỗi thành viên ban giám khảo mỗi ngày được phát một chai Whisky “Ballantyne” mà Derek khi đó đã bỏ rượu nên anh ấy trao cho tôi, còn tôi làm vui anh ấy bằng cách dịch theo trí nhớ thơ của Mandelstam. Tôi nhớ câu thơ: “Và trên sông Nê-va màu vàng chanh, sau tiếng xạc xào của tờ một trăm đồng rúp/ Cô gái Digan trước mặt tôi đã không còn nhảy múa nữa bao giờ” đã gây cho Derek một ấn tượng rất mạnh. Anh ấy đánh mất mình vì khoái chí. Sau đó làm thơ về sự ân huệ của tôi sử dụng xảo thuật gây ấn tượng của những dòng thơ này. Anh ấy còn giúp tôi dịch thơ của mình.

- Tôi nghĩ rằng Walcott trong thơ của Mandelstam và trong thơ anh mang một nét cổ điển. Không ngẫu nhiên mà anh ấy thích so sánh quần đảo của mình với quần đảo của người Hy Lạp.


- Quả là đúng như vậy, khuynh hướng này ở anh ấy rất mạnh mẽ, suy nghĩ về quần đảo của mình ở Đông Ấn như về Hy Lạp. Derek lật từng trang sách như ngọn sóng - giật lùi.
<1992>