Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

Harold Pinter - Giải Nobel Văn học năm 2005


Harold Pinter (10-10-1930/ 24-12-2008) – là nhà viết kịch, nhà thơ, đạo diễn, diễn viên, nhà hoạt động xã hội người Anh đoạt giải Nobel Văn học năm 2005 vì đã “mở ra những vực thẳm được che đậy sau những câu chuyện ba hoa, trống rỗng thường ngày và thâm nhập vào những không gian biệt lập của sự áp bức”. Harold Pinter được coi là nhà viết kịch lớn nhất của nước Anh hiện tại, tên ông mang lại một khái niệm văn học “Phong cách Pinter” (Pinteresque), thể hiện một phong cách kịch nghệ đặc thù. Ông cũng là người nổi tiếng với những quan điểm phản đối chiến tranh ở Nam Tư, Afghanistan, Iraq.

Tiểu sử:
Harold Pinter sinh ở Hackney, đông London trong một gia đình cả bố và mẹ đều là những người Do Thái từ Đông Âu. Pinter từ nhỏ đã đóng kịch ở trường học. Năm 1948 vào học trường Kịch nghệ Hoàng gia (Royal Academy of Dramatic Art) nhưng không tốt nghiệp. Năm 1950 in những bài thơ đầu tiên (ông từng làm thơ, viết văn nhưng sau khi dựng vở kịch đầu tiên thì quyết định trở thành nhà viết kịch). Vở kịch một màn đầu tiên The Room (Căn phòng) được dàn dựng ở Đại học Briston. Trong những năm này Harold Pinter diễn kịch lấy nghệ danh là David Baron. Năm 1960 viết vở kịch The Caretaker (Người trông nhà) cho cả nước Anh thấy rằng đã có một nhà viết kịch tài năng xuất hiện. Nửa đầu thập niên 1960 Pinter viết nhiều vở kịch nổi tiếng như: The Collection (Bộ sưu tập, 1961); The Lover (Người tình, 1962); Tea Party (Hội uống trà, 1964); The Homecoming (Đi về nhà, 1965)... Những vở kịch sau này được dàn dựng thường xuyên có thể kể đến: No Man's Land (Miền đất không của người nào, 1974); The Betrayal (Sự phản bội, 1978); Mountain Language (Ngôn ngữ của núi rừng, 1988)...

Pinter tiếp tục phân tích những góc bí ẩn trong lòng người không chỉ bằng kịch mà cả điện ảnh. Ông viết kịch bản cho các bộ phim: The Servant (Người đầy tớ, 1963); The Accident (Sự rủi ro, 1967); The Go-Between (Người môi giới, 1970)... Bảng kịch bản phim của ông dựa vào tiểu thuyết The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng) của nhà văn F. Scott Fitzgerald được quay thành bộ phim nổi tiếng. Tiểu thuyết The French Lieutenant's Woman (Người tình của viên trung uý Pháp) của nhà văn John Fowles cũng là bộ phim nổi tiếng với kịch bản của Pinter. Tiểu thuyết Der Prozess (Vụ án) của Franz Kafka cũng là một trường hợp tương tự... Nhiều vở kịch của mình được ông chuyển thành kịch bản phim và ông cũng là một diễn viên điện ảnh. Harold Pinter nhận được rất nhiều giải thưởng các loại, trong số đó có “Giải thưởng Shakespeare”, “Giải thưởng châu Âu”, “Giải thưởng Pirandello”... tất cả gần hai chục giải thưởng.

Ngoài hoạt động nghệ thuật ông còn là một nhà hoạt động chính trị. Từ đầu thập niên Pinter đã tích cực tham gia vào phong trào nhân quyền. Năm 1985, theo sáng kiến của Hội Văn bút Quốc tế (International PEN) Harold Pinter cùng nhà soạn kịch người Mỹ Arthur Miller (chồng cũ của nữ diễn viên điện ảnh huyền thoại Marilyn Monroe) sang Thổ Nhĩ Kỳ để tìm hiểu chuyện đàn áp các nhà văn ở nước này. Khi đại sứ Mỹ tại Thổ Nhĩ Kỳ giải thích rằng trong tình hình quốc tế hiện tại chính phủ Mỹ không thể không ủng hộ chính quyền ở đây, ngay cả việc đàn áp đối với một số nhà văn... thì Pinter và Miller đã lớn tiếng và chửi ông đại sứ. Cả hai nhà viết kịch đã tự ý rời khỏi đại sứ quán sau đó. Sau này Pinter viết rằng đấy là một sự kiện sâu sắc nhất trong tiểu sử của mình mà ông sẽ tự hào cho đến hết đời. Ông cũng là người mạnh mẽ tố cáo việc NATO ném bom Serbia và kiên quyết phản đối Anh-Mỹ trong chiến tranh ở Afghanistan và Iraq. Năm 2003 ông xuất bản tập thơ War (Chiến tranh) về Iraq được tặng giải thưởng Wilfred Owen.

Tháng 3 năm 2005 trong một cuộc phỏng vấn của hãng truyền hình BBC, Harold Pinter tuyên bố rằng từ nay ông thôi viết kịch để tập trung sức cho việc làm thơ và chính trị vì ông “cảm thấy không yên tâm với tình hình hiện nay”. “Tôi đã viết 29 vở kịch. Các bạn cho rằng vậy đã đủ chưa? Tôi cho là đủ. Tôi đã tìm thấy cho mình những hình thức khác”. 


Tháng 4 năm 2008, ông cùng với 105 người Do Thái nổi tiếng khác đã ký vào bức thư ngỏ liên quan đến việc kỷ niệm ngày thành lập Nhà nước Israel: “Chúng ta không thể kỷ niệm sinh nhật của một Nhà nước dựa trên khủng bố, tàn sát và trục xuất người dân khỏi đất đai của họ”. (We cannot celebrate the birthday of a state founded on terrorism, massacres and the dispossession of another people from their land).


Harold Pinter mất tại London ngày 24 tháng 12 năm 2008.  


Tác phẩm: 
*The Room (Căn phòng, 1957), kịch
*The Dumb Waiter (Người hầu bàn câm lặng, 1957), kịch
*The Birthday Party (Tiệc sinh nhật, 1958), kịch
*The Hothouse (Nhà kính, 1958), kịch
*A Slight Ache (Nỗi đau nhẹ nhàng, 1959), kịch
*The Caretaker (Người trông nhà, 1960), kịch
*The Dwarfs (Những chú lùn, 1960), kịch
*The Collection (Bộ sưu tập, 1962), kịch
*The Lover (Người tình, 1963), kịch
*Tea Party (Hội uống trà, 1964), kịch
*The Homecoming' (Đi về nhà, 1965), kịch
*Basement (Tầng hầm, 1966), kịch
*Landscape (Phong cảnh, 1968), kịch
*Silence (Im lặng, 1968), kịch
*Night (Đêm, 1969), kịch
*Monologue (Kịch một vai, 1972), kịch
*Betrayal (Sự phản bội, 1978), kịch
*Old Times (Thời xưa, 1971), kịch
*No Man's Land (Miền đất không của người nào, 1975), kịch
*Other Places (Những chỗ khác, 1982), kịch
*The New World Order (Trật tự thế giới mới, 1991), kịch
*Ngôn ngữ của núi rừng (Mountain Language, 1988), kịch
*Ánh trăng (Moonlight, 1993), kịch
*Lễ kỉ niệm (Celebration, 1999), kịch
*Hoài niệm về quá khứ (Remembrance of Things Past, 2000), kịch
*Người đầy tớ (The Servant, 1963), kịch bản phim
*Người ăn bí ngô (The Pumpkin Eater, 1964), kịch bản phim
*Bản ghi nhớ Quiller (The Quiller Memorandum, 1965), kịch bản phim
*Sự rủi ro (Accident, 1967), kịch bản phim
*Người môi giới (The Go-Between, 1970), kịch bản phim
*Người tình của viên trung uý Pháp (The French Lieutenant's Woman, 1981), kịch bản phim
*Trùm tư bản cuối cùng (The Last Tycoon, 1976), kịch bản phim
*Chiến thắng (Victory, 1982), kịch bản phim
*Câu chuyện của cô người hầu (The Handmaid’s Tale, 1987), kịch bản phim
*Đoàn viên (Reunion, 1988), kịch bản phim
*The Trial (Vụ án, 1991), kịch bản phim
*The Tragedy of King Lear (Bi kịch của vua Lear, 2000), kịch bản phim
*Thơ và văn xuôi (Poems and Prose 1949-1977, 1978), thơ, văn xuôi
*Những chú lùn (The Dwarfs: A Novel, 1990), tiểu thuyết
*Những tiếng nói khác nhau: Thơ, Văn, Chính trị 1948-1998 (Various Voices: Poetry, Prose, Politics, 1948-1998, 1998), thơ, văn xuôi
*Chiến tranh (War), thơ



Một số bài thơ:

THƠ
(Poem)

Đèn chiếu sáng
Điều gì sắp xảy ra đây?

Màn đêm buông rồi.
Cơn mưa đã tạnh.
Điều gì sắp xảy ra đây?

Màn đêm càng dày
Hắn không biết được
Tôi sẽ nói gì với hắn đây.

Chỉ khi hắn đi rồi
Tôi mới tìm ra những lời
Và nói những gì tôi sắp nói
Trong cái lần gặp nhau sắp tới
Mà bây giờ đã diễn ra đây. 

Nhưng hắn không nói một lời
Trong cái lần gặp nhau sắp tới
Chỉ bây giờ, mỉm cười khi ngoảnh lại
Và thầm thì:
“Tôi không biết
Điều gì sắp xảy ra”.

Poem

The lights glow.
What will happen next?

Night has fallen.
The rain stops.
What will happen next?

Night will deepen.
He does not know
What I will say to him.

When he has gone
I'll have a word in his ear
And say what I was about to say
At the meeting about to happen
Which has now taken place.

But he said nothing
At the meeting about to take place.
It is only now that he turns and smiles
And whispers:
'I do not know

What will happen next.'



CÁI CHẾT
(Death)

Xác chết này được tìm thấy ở đâu?
Ai là người tìm thấy xác chết này?
Liệu có phải đã tìm ra xác chết?
Và người ta tìm thấy nó ra sao?

Xác chết này là của người nào?

Ai là cha, là anh trai, chị gái
Ai là mẹ, là con trai, con gái
Của xác chết này?

Liệu xác đã chết khi bị bỏ rơi
Mà chắc gì xác chết bị bỏ rơi?
Ai là người đã bỏ rơi xác chết?

Xác trần truồng hay xác mặc áo quan?

Điều gì buộc bạn nói xác lìa trần?
Bạn tuyên bố xác đã chết rồi chăng?
Liệu bạn có biết gì về xác chết?
Và làm sao bạn biết xác lìa trần?

Bạn có khâm liệm xác chết này không
Bạn có vuốt mắt cho nó hay không
Bạn có là người đã chôn xác chết
Bạn có là người bỏ rơi xác chết
Và bạn có hôn xác chết này không. 

Death

Where was the body found?
Who found the dead body?
Was the dead body dead when found?
How was the dead body found?

Who was the dead body?

Who was the father or daughter or brother
Or uncle or sister or mother or son
Of the dead and abandoned body?

Was the body dead when abandoned?
Was the body abandoned?
By whom had it been abandoned?

Was the dead body naked or dressed for a journey?

What made you declare the dead body dead?
Did you declare the dead body dead?
How well did you know the dead body?
How did you know the body was dead?

Did you wash the dead body
Did you close both its eyes
Did you bury the body
Did you leave it abandoned
Did you kiss the dead body



VỪA ĐI VỪA ĐỢI
(A Walk by Waiting)

Vừa đi vừa nghe
Vừa đi vừa đợi.

Đợi, nghe đông tới
Bước đi trên gương.

Đợi, nghỉ dưới gương
Bước theo giọng nói.

Đếm đông bằng hoa
Bước theo giọng nói.

Đợi dưới gương câm.

A Walk by Waiting

A walk by listening.
A walk by waiting.

Wait under the listening
Winter, walk by the glass.

Rest by the glass of waiting.
Walk by the season of voices.

Number the winter of flowers.
Walk by the season of voices.


Wait by the voiceless glass.




MA
(Ghost)

Tôi cảm thấy những ngón tay mềm nơi họng
Dường như có ai đang bóp nghẹt cổ tôi

Đôi môi ngọt ngào và khô cứng
Dường như có ai đó đã hôn tôi

Xương của tôi kêu răng rắc
Tôi rơi vào những con mắt của ai

Tôi nhìn ra gương mặt quen biết này
Gương mặt đẹp và lạ lùng đáng sợ

Nó không cười, cũng không rơi lệ
Đôi mắt to, làn da trắng rợn người

Tôi không khóc mà cũng chẳng cười
Tôi giơ tay chạm vào đôi má ấy. 

Ghost

I felt soft fingers at my throat
It seemed someone was strangling me

The lips were hard as they were sweet
It seemed someone was kissing me

My vital bones about to crack
I gaped into another's eyes

I saw it was a face I knew
A face as sweet as it was grim

It did not smile it did not week
Its eyes were wide and white its skin

I did not smile I did not weep
I raised my hand touched its cheek.


CHÚA TRỜI
(God)

Chúa Trời nhìn vào trái tim mình bí mật
Để tìm một lời ban ơn
Cho những con người sống trên mặt đất.

Nhưng Ngài nhìn sau nhìn trước
Ngài có thể làm sống lại những hồn ma
Nhưng trong phòng đã chẳng có bài ca
Ngài nhận ra với nỗi đau oan nghiệt
Ngài đã không có phước để mà ban.

God

God looked into his secret heart
to find a word
To bless the living throng below.

But look and look as he might do
And begging ghosts to live again
But hearing no song in that room
He found with harshly burning pain
He had no blessing to bestow.



TRONG ĐÊM EM HÃY NGHE
(You in the Night)

Trong đêm em hãy nghe
Gió rầm rì và sấm.
Em ở nơi bờ bến
Nơi ngọn gió sinh ra.

Mọi hy vọng, ước mơ
Tan tành trên đá phiến
Và mùa đông đang xuống
Dưới bàn chân em kìa.

Những án thờ cháy như
Ông mặt trời đang bắt
Chim đại bàng gào to
Còn em – đi trên cáp. 

You in the Night

You in the night should hear
The thunder and the walking air.
You on that shore shall bear
Where mastering weathers are.

All that honoured hope
Shall fail upon the slate
And break the winter down
That clamours at your feet.

Though the enamouring altars burn,
And the deliberate sun
Make the eagle bark,
You’ll tread the tightrope.


T. Tranströmer - Giải Nobel Văn học năm 2011


Tomas Gösta Tranströmer (15 tháng 4 năm 1931 – 26 tháng 3 năm 1915) – nhà thơ Thụy Điển đoạt giải Nobel Văn học năm 2011 vì “thông qua sự mờ ảo và cô đọng của những hình ảnh, ông đã đem đến cho độc giả một cách tiếp cận mới với hiện thực”. Tomas Tranströmer là nhà thơ lớn của Thụy Điển trong thế kỷ XX, ông được coi là một trong những nhà thơ quan trọng nhất của cả Bắc Âu kể từ Thế chiến II. Tên tuổi của Tomas Tranströmer được đặt ngang hàng với Emanuel Swedenborg, August Strindberg, Ingmar Bergman không chỉ ở Thụy Điển mà cả nền văn hóa thế giới hiện đại như một trong những người tạo nên nhân sinh quan Thụy Điển và đã vượt ra ngoài phạm vi một quốc gia.

Tiểu sử: 
Tomas Tranströmer sinh ở Stockholm. Học phổ thông và Đại học ở Stockholm. Bắt đầu làm thơ từ năm 13 tuổi, tập thơ đầu tiên 17 bài thơ in năm 1954. Tốt nghiệp Đại học năm 1956, ông hành nghề bác sĩ tâm lý đầu tiên ở nhà tù dành cho trẻ vị thành niên, sau đó là điều trị cho những người bị bệnh nặng không thể làm việc. 

Ngoài nghề bác sĩ tâm lý và nhà thơ, Tomas Tranströmer còn là một nghệ nhân chơi đàn dương cầm chuyên nghiệp. Sau cú đột quỵ đầu thập niên 1990 ông tập viết và chơi đàn bằng tay trái những bản nhạc mà các nhạc sĩ chuyên nghiệp viết riêng cho ông. Gần như cả đời ông sống ở thành phố Västeråс, chỉ những năm cuối đời ông sống với vợ ở Stockholm. 

Tomas Tranströmer là tác giả của những bài thơ luôn cân bằng với lối ẩn dụ dày đặc dường như muốn phá vỡ sự cân bằng này. Ông còn được coi là tác giả của thơ haiku thể nghiệm, khác xa so với haiku truyền thống. Tập thơ Điều bí ẩn lớn (Den stora gåtan) xuất bản năm 2004 là những haiku mẫu mực của Tomas Tranströmer.

Năm 2011 ông được trao giải Nobel Văn học. Trước giải Nobel Văn học, Tomas Tranströmer từng được trao giải thưởng Petrarca-Preis của Đức, giải thưởng Griffin của Canada, giải thưởng Struga Poetry Evening của Macedonia, giải thưởng Neustadt International của Mỹ cũng như nhiều giải thơ khác của Thụy Điển. Thơ của Tomas Tranströmer được dịch ra hơn 60 thứ tiếng. Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh là người đầu tiên dịch ra tiếng Việt và đã in thành sách từ năm 1993. 

Tranströmer qua đời tại Stockholm ngày 26 tháng 3 năm 2015 ở tuổi 83, còn thiếu 3 tuần để đến sinh nhật lần thứ 84 của ông. 

Tác phẩm:
*17 dikter (17 bài thơ) 1954; Bonniers, 1965
*Hemligheter på vägen (Những bí mật trên đường), Bonnier, 1958
*Den halvfärdiga himlen (Bầu trời chưa kết thúc), Bonnier, 1962
*Klanger och spår (Tiếng vọng và dấu vết), Bonnier, 1966
*Mörkerseende (Nhìn trong bóng tối), Författarförlaget, 1970
*Stigar (Những con đường nhỏ), Författarförlaget, 1973
*Östersjöar (Hồ phía đông), Bonnier, 1974
*Sanningsbarriären (Vật cản của chân lý), Bonnier, 1978
*Det vilda torget (Quảng trường hoang) Bonnier, 1983
*För levande och döda (Gửi người sống và người chết), Bonnier, 1989
*Sorgegondolen (Gondola đau buồn), Bonnier, 1996
*Den stora gåtan (Điều bí ẩn lớn), Bonnier, 2004
*Minnena ser mig (Kỷ niệm đang ngắm nhìn tôi, 1993) 

Một số bài thơ:



VERMEER

Thế giới không có mái che. Tiếng động từ bên kia bức tường
quán nhậu bắt đầu bằng tiếng cười ồn, tiếng rít của răng
tiếng chuông đồng hồ và tin về cái chết
mà khi nghe thấy ai ai cũng đều run 
bần bật. 

Một tiếng nổ vang và tiếng bước chân của những người cứu hộ muộn màng
những con tàu lớn đậu trên sông
tiền chui vào túi không phải của những người cần
những đòi hỏi chất đống lên đòi hỏi
hoa màu đỏ linh cảm mồ hôi của chiến tranh. 

Từ quán, xuyên qua bức tường đi thẳng vào phòng
vào cái khoảnh khắc sẽ kéo dài bằng cả trăm năm.
Những bức tranh có tên “Giờ học nhạc”
hoặc “Cô gái ngồi đọc thư bên cửa sổ mặc áo màu xanh” –
cô mang thai tám tháng, hai con tim đập trong người mình.
Bức tường phía sau cô treo tấm bản đồ Terra Incognita – miền đất lạ.

Hơi thở bình yên… Một tấm vải lạ lẫm màu xanh
được đính vào chiếc ghế từ phía sau lưng.
Những chiếc đinh vàng bay vun vút rồi bỗng lặng ngừng
giữa không khí như là bất động mà chưa từng là gì khác. 

Đôi tai nghe ra tiếng động của chiều cao và chiều sâu cùng lúc.
Đấy là áp lực từ phía bên kia của bức tường.
Nó phơi bày mỗi sự việc ra giữa không trung
và làm cho vững chắc thêm từng nét bút. 

Thật đau đớn phải đi qua những bức tường
bạn chịu tổn thương nhưng điều này cần thiết lắm
Thế giới là một. Nhưng có những bức tường… 
Những bức tường là một phần của bạn
tất cả mọi người đều thế – dù bạn có đoán mò đoán mẫm –
ngoại trừ trẻ con. Đối với trẻ con không có những bức tường. 

Bầu trời thoáng đãng dựa vào bức tường.
Hướng vào khoảng không như là cầu nguyện.
Và quay mặt hướng về phía chúng ta – khoảng không
và thì thầm:
“Tôi không phải là trống không, tôi là mở rộng”. 
_____________
*Johannes Vermeer hay Jan Vermeer (1632 – 1675) là họa sĩ người Hà Lan thời Baroque, nổi tiếng với các tác phẩm về đời sống hiện thực. Hiện nay Vermeer được coi là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất trong Thế kỷ vàng của nghệ thuật Hà Lan. 




Vermeer


Ingen skyddad värld... Strax bakom väggen börjar larmet 

börjar värdshuset
med skratt och kvirr, tandrader tårar klockornas dån 
och den sinnesrubbade svågern, dödsbringaren som alla måste 
   darra för.

Den stora explosionen och räddningens försenade tramp 

båtarna som kråmar sig på redden, pengarna som kryper ner i
   fickan på fel man
krav som staplas på krav
gapande röda blomkalkar som svettas föraningar om krig.

Därifrån och tvärs genom väggen in i den klara ateljén

in i sekunden som får leva i århundraden.
Tavlor som kallar sig ”Musiklektionen”
eller ”Kvinna i blått som läser ett brev” –
hon är i åttonde månaden, två hjärtan sparkar i henne.
På väggen bakom hänger en skrynklig karta över Terra Incognita.

Andas lugnt... En okänd blå materia är fastnaglad vid stolarna.

Guldnitarna flög in med oerhörd hastighet 
och tvärstannade
som om de aldrig varit annat än stillhet.

Det susar i öronen av antingen djup eller höjd.

Det är trycket från andra sidan väggen.
Det får varje faktum att sväva
och gör penseln stadig.

Det gör ont att gå genom väggar, man blir sjuk av det

men det är nödvändigt.
Världen är en. Men väggar...
Och väggen är en del av dig själv –
man vet det eller vet det inte men det är så för alla
utom för små barn. För dem ingen vägg.

Den klara himlen har ställt sig på lut mot väggen.

Det är som en bön till det tomma.
Och det tomma vänder sitt ansikte till oss
och viskar
”Jag är inte tom, jag är öppen”.


TỪ THÁNG BA – 79

Mệt vì người ta đến với những lời mà không ngôn ngữ
Tôi bèn đến một hòn đảo có tuyết phủ đầy.
Nơi hoang dã chẳng có lời.
Có quá nhiều những trang chưa viết!
Tôi bắt gặp những móng chân hươu trên tuyết.
Ngôn ngữ nhưng chẳng có lời.


 Från mars -79


Trött på alla som kommer med ord, ord men inget språk

for jag till den snötäckta ön.
Det vilda har inga ord.
De oskrivna sidorna breder ut sig åt alla håll!
Jag stöter på spåren av rådjursklövar i snön.
Språk men inga ord.



THÁNG TƯ VÀ IM LẶNG

Mùa xuân hoang vu.
Một rãnh nước màu nhung sẫm
bò sát bên cạnh ta
không hình phản ánh. 

Chỉ một thứ duy nhất lấp lánh
là những bông hoa màu vàng. 

Chiếc bóng mang
ta đi như chiếc vĩ cầm
trong chiếc hộp màu sẫm tối. 

Điều duy nhất mà ta muốn nói
lóe lên ngoài tầm đạt tới
như đồ bạc ánh lên
ở người cho vay nặng lãi. 


April och Tystnad


Våren ligger öde.

Det sammetsmörka diket 
krälar vid min sida 
utan spegelbilder.

Det enda som lyser 

är gula blommor.

Jag bärs i min skugga

som en fiol 
i sin svarta låda.

Det enda jag vill säga 

glimmar utom räckhåll
som silvret 
hos pantlånaren.


NHẠC CHẬM

Nhà đóng cửa. Mặt trời len qua ô cửa sổ
sưởi ấm mặt chiếc bàn nhỏ
và đủ mạnh để mang số phận của con người. 

Ngày hôm nay chúng tôi dạo chơi trên sườn dốc rộng và dài.
Nhiều người mặc đồ màu tối. Có thể đứng dưới mặt trời, mắt nhắm lại
và cảm nhận rằng cơn gió đang mang bạn chơi vơi. 

Tôi rất hiếm khi đi xuống biển. Nhưng bây giờ tôi đang ở đây 
giữa những tảng đá lưng trần êm ả
Những tảng đá đang dần quay lưng lùi xa biển cả.


Långsam musik


Byggnaden är stängd. Solen tränger in genom fönsterrutorna

och värmer upp ovansidan på skrivborden
som är starka nog att bära människoödens tyngd.

Vi är ute i dag, på den långa vida sluttningen.

Många har mörka kläder. Man kan stå i solen och blunda
och känna hur man långsamt blåser framåt.

Jag kommer för sällan fram till vattnet. Men nu är jag här,

bland stora stenar med fridfulla ryggar.
Stenar som långsamt vandrat baklänges upp ur vågorna.





CUNG ĐÔ TRƯỞNG

Khi chàng trở về từ nơi hò hẹn
tuyết xoáy giữa không trung.
Mùa đông đã đến
trong khi họ nằm cùng
Đêm tỏa hào quang ngời sáng.
Chàng dường như chạy với vẻ hân hoan
Đường khắp thành phố chỉ toàn đi xuống. 
Chàng mỉm cười với người qua đường
tất cả mỉm cười sau cổ áo mở tung.
Tự do là thế!
Tất cả dấu hỏi hát về sự tồn tại của Chúa Trời.
Chàng nghĩ vậy.

Tiếng nhạc vang lên
và bước đi trong tuyết xoáy
bằng những bước thong dong. 
Cuộc dạo chơi dưới cung Đô trưởng.
La bàn run rẩy hướng về Đô trưởng.
Một giờ hướng về phía bắc bởi niềm đau.
Thật dễ dàng biết bao!
Tất cả mỉm cười từ sau cổ áo.


C-dur


När han kom ner på gatan efter kärleksmötet

virvlade snö i luften.
Vintern hade kommit
medan de låg hos varann.
Natten lyste vit.
Han gick fort av glädje.
Hela staden sluttade.
Förbipasserande leenden -
alla log bakom uppfällda kragar.
Det var fritt!
Och alla frågetecken började sjunga om Guds tillvaro.
Så tyckte han.

En musik gjorde sig lös

och gick i yrande snö
med långa steg.
Allting var på vandring mot ton C.
En darrande kompass riktad mot C.
En timme ovanför plågorna.
Det var lätt!
Alla log bakom uppfällda kragar.



ESPRESSO

Cà phê đen trên quán cà phê vỉa hè
với bàn ghế, như côn trùng, rực rõ.

Những giọt cà phê đen quí giá
chất đầy một sức mạnh Có và Không.

Được bưng ra từ nơi tối như bưng
nó nhìn mặt trời mà không chớp mắt.

Giữa ánh sáng ban ngày – tươi mát một chấm đen
chảy tuột nhanh vào kẻ thực khách tái nhợt.

Giống như những giọt đen sâu sắc
đôi khi chúng tìm bắt những linh hồn.

Tạo nên một cú đẩy hữu ích: Đi anh!
Nguồn cảm hứng – trong những đôi mắt mở rộng.


Espresso


Det svarta kaffet på uteserveringen

med stolar och bord granna som insekter.

Det är dyrbara uppfångade droppar

fyllda med samma styrka som Ja och Nej.

Det bärs fram ur dunkla kaféer

och ser in i solen utan att blinka.

I dagsljuset en punkt av välgörande svart

som snabbt flyter ut i en blek gäst.

Det liknar dropparna av svart djupsinne

som ibland fångas upp av själen.

som ger en välgörande stöt: Gå!

Inspiration att öppna ögonen.




HAI NGƯỜI 

Họ tắt đèn, và chao đèn màu trắng chập chờn
thêm một khoảnh khắc trước khi hòa tan
như viên thuốc trong ly. Sau bật dậy.
Tường khách sạn hướng về phía trời đêm. 

Cơn say tình đã dịu đi, và họ ngủ
nhưng những ý nghĩ kín thầm tìm đến với nhau
giống như khi hai màu sắc hòa thành một màu
trên giấy ướt, trong bức tranh cậu học trò vừa vẽ. 

Tối và yên lặng. Nhưng thành phố dường như tiếp cận 
trong đêm. Cửa sổ tối. Xích lại những ngôi nhà
Chúng như đứng sát bên nhau, và đợi chờ
đám đông với những gương mặt vô cùng hờ hững.


 Paret


De släcker lampan och dess vita kupa skimrar

ett ögonblick innan den löses upp
som en tablett i ett glas mörker. Sedan lyftas.
Hotellets väggar skjuter upp i himmelsmörkret.

Kärlekens rörelser har mojnat och de sover

men deras hemligaste tankar möts
som när två färger möts och flyter in i varann
på det våta papperet i en skolpojksmålning.

Det är mörkt och tyst. Men staden har ryckt närmare

i natt. Med släckta fönster. Husen kom.
De står i hopträngd väntan mycket nära,
en folkmassa med uttryckslösa ansikten.


SAU CÁI CHẾT

Từng có một cú sốc
Như sao chổi bỏ lại cái đuôi dài, nhạt và lung linh
Bao phủ lấy ta. Làm mờ màn ảnh máy thu hình.
Thành những giọt sương lạnh đậu trên dây điện thoại. 

Còn có thể trượt tuyết dưới mặt trời mùa đông
giữa cánh rừng còn vương nhiều chiếc lá.
Như những trang xé từ trong danh bạ
mà băng giá đã làm mờ nhạt tuổi tên. 

Thật tuyệt khi còn nghe tiếng đập con tim
Nhưng thường xuyên bóng thực hơn thể xác. 
Samurai ảo mờ nâng kiếm thép
Sau giáp bào lấp lóa vảy rồng đen. 


Efter någons död


Det var en gång en chock

som lämnade efter sig en lång, blek, skimrande kometsvans.
Den hyser oss. Den gör TV—bilderna suddiga.
Den avsätter sig som kalla droppar på luftledningarna.

Man kan fortfarande hasa fram på skidor i vintersolen

mellan dungar där fjolårslöven hänger kvar.
De liknar blad rivna ur gamla telefonkataloger—
abonnenternas namn uppslukade av kölden.

Det är fortfarande skönt att känna sitt hjärta bulta.

Men ofta känns skuggan verkligare än kroppen.
Samurajen ser obetydlig ut

bredvid sin rustning av svarta drakfjäll.


NHỮNG VÁCH ĐÁ ĐẠI BÀNG

Sau lớp kính lồng
loài bò sát lạ lùng
nằm im không cử động. 

Người phụ nữ giặt áo quần
rồi phơi trong lặng yên.
Cái chết vô cùng tĩnh lặng. 

Tâm trí tôi chơi vơi
ở nơi sâu tận cùng đang bơi
nhẹ nhàng như ngôi sao chổi.


Örnklippan


Bakom terrariets glas

reptilerna
underligt orörliga.

En kvinna hänger tvätt

i tystnaden.
Döden är vindstilla.

I markens djup

glider min själ
tyst som en komet.


MADRIGAL

Tôi được thừa kế một khu rừng tối mà tôi ít khi đến nơi đây. Nhưng sẽ đến một ngày, khi người chết sẽ thế chỗ cho người sống. Thì khi đó rừng của tôi sẽ chuyển động. Và chúng ta vẫn hãy còn hy vọng. Những tội ác nghiêm trọng nhất vẫn không được vạch trần bất chấp những nỗ lực của công an. Trong cuộc sống của mỗi chúng ta thì cũng thế, luôn có một tình yêu lớn không hề được tiết lộ. Tôi được thừa kế một khu rừng tối nhưng hiện tại tôi dạo chơi trong một khu rừng khác có ánh sáng ngập tràn. Mọi sinh linh đang vẫy vùng, run rẩy và hát lên. Đó là một mùa xuân và không khí tràn ngập mùi hương. Tôi từng tốt nghiệp trường Đại học lãng quên và đôi bàn tay của tôi trống không như chiếc áo trên chiếc dây phơi quần áo. 


Madrigal


Jag ärvde en mörk skog dit jag sällan går. Men det kommer en dag när de döda och levande byter plats. Då sätter sig skogen i rörelse. Vi är inte utan hopp. De svåraste brotten förblir ouppklarade trots insats av många poliser. På samma sätt finns någonstans i våra liv en stor uoppklarad kärlek. Jag ärvde en mörk skog men idag går jag i en annan skog, den ljusa. Allt levande som sjunger slingrar viftar og kryper! Det är vår och luften är mycket stark. Jag har examen från glömskans universitet och är lika tomhänt som skjortan på tvättstrecket.





CỬA VÒM LA MÃ

Bên trong một nhà thờ La Mã lớn
khách du lịch đang tụ tập ở nơi chập choạng.
Những cửa vòm nối tiếp nhau như đến vô cùng.
Những ngọn nến tỏa ánh sáng lung linh.
Ôm lấy tôi – một thiên thần không nhìn thấy mặt
rót vào thân thể tôi bằng những tiếng thì thầm:
“Chớ xấu hổ rằng mi là con người mà hãy tự hào lên!
Sâu bên trong mi là những vòm cuốn mở ra nối tiếp nhau
rồi đi vào muôn kiếp, mi sẽ không bao giờ kết thúc”.
Tôi như bị mù bởi những giọt nước mắt rơi
và tôi bước ra quảng trường đầy ánh mặt trời
cùng với ông bà Jones, Quí ông Tanaka, Quí bà Sabatini
Sâu bên trong họ là những vòm cuốn nối tiếp nhau mở ra 
rồi đi vào muôn kiếp. 


Romanska bågar


Inne i den väldiga romanska kyrkan

trängdes turisterna i halvmörkret.
Valv gapade bakom valv och ingen överblick.
Några ljuslågor fladdrade.
En ängel utan ansikte omfamnade mig
och viskade genom hela kroppen:
”Skäms inte för att du är människa, var stolt!
Inne i dig öppnar sig valv bakom valv oändligt.
Du blir aldrig färdig, och det är som det skall.”
Jag var blind av tårar
och föstes ut på den solsjudande
piazzan tillsammans med Mr och Mrs Jones,
Herr Tanaka och Signora Sabatini,
och inne i dem alla öppnade sig valv bakom valv oändligt.


THI TIẾT ALCAIC 

Trong rừng tháng Năm. Cuộc đời tôi lao như chiếc xe tải vô hình
tiếng hót của chim. Trong vũng nước - ấu trùng của muỗi.
Và trong những điệu nhảy điên khùng
đang nhảy múa cả hàng nghìn dấu hỏi.

Tôi chạy đến với những lời và những khu rừng.
Cơn gió từ biển, con rồng liếm tôi vào cổ
trong khi mặt trời như đam mê rực đỏ.
Chiếc xe tải cháy bừng trong ngọn lửa giá băng.


 Alkaiskt


En skog i maj. Här spökar mitt hela liv:

det osynliga flyttlasset. Fågelsång.
I tysta gölar mygglarvernas
ursinnigt dansande frågetecken.

Jag flyr till samma platser och samma ord.

Kall bris från havet, isdraken slickar mig
i nacken medan solen gassar.
Flyttlasset brinner med svala lågor.



GOGOL

Áo khoác lạnh và xơ lông như bầy sói.
Khuôn mặt trắng toát như đá cẩm thạch
Ông ngồi lật từng trang sách, nghe từ trong rừng
tiếng tru về sai lầm và coi khinh sự mất mát.
Con tim vỡ tung như dây đai bằng giấy nháp
khi những con thú kia nghiệt ngã nhảy vào. 

Hoàng hôn bò như một con cáo trên đất nước này
Cỏ chạm vào đuôi mà không lên mặt.
Không gian đầy sừng và móng guốc
xe ngựa bốn bánh đổ bóng lên sân đầy 
trong trang trại của cha tôi. 

St Petersburg nằm trên đường kinh tuyến điêu tàn
(bạn có nhìn thấy vẻ đẹp của tháp nghiêng?)
người dân thành phố đang thơ thẩn
như con sứa trong nước đóng băng. 

Còn ông kiệt sức bởi ăn chay 
và tiếng cười bao quanh
nhưng tiếng cười vỡ ra trên rừng. 
Và tan tác.
Làm sao để dải Ngân hà của những linh hồn cháy lên.
Thôi thì hãy ngồi vào bánh xe bằng lửa của mình
và rời khỏi đất nước. 
_____________
*Nikolai Vasilievich Gogol (1809 – 1852) – nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch Nga, tác gia cổ điển của văn học Nga, tác giả của “Những linh hồn chết”.


Gogol


Kavajen luggsliten som en vargflock.

Ansiktet som en marmorflisa.
Sitter i kretsen av sina brev i lunden som susar
av hån och misstag,
ja hjärtat blåser som ett papper genom de ogästvänliga
¬passagerna.

Nu smyger solnedgången som en räv över detta land,

antänder gräset på ett ögonblick.
Rymden är full av horn och klövar och därunder
glider ¬kaleschen skugglik mellan min faders
upplysta gårdar.

Petersburg beläget på samma breddgrad som förintelsen

(såg du den sköna i det lutande tornet)
och kring nedisade kvarter än svävar manetlikt
den arme i sin kappa.

Och här, insvept i fastor, är han som förr omgavs av

skrattens hjordar,
men de har för länge sedan begivit sig till trakter långt
ovanför trädgränsen.
Människors raglande bord.
Se ut, hur mörkret bränner fast en vintergata av själar.
Så stig upp på din eldvagn och lämna landet!