Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

Seamus Heaney - Giải Nobel Văn học năm 1995


Seamus Jastin Heaney (1939-) - nhà thơ Ireland đoạt giải Nobel Văn học 1995 “vì vẻ đẹp trữ tình và chiều sâu đạo đức của những tác phẩm thơ ca, mang đến cho chúng ta những phép lạ hàng ngày và quá khứ sống động”. Nhà thơ Mỹ Robert Lowell gọi ông là “nhà thơ Ailen quan trọng nhất kể từ Yeats” và nhiều người khác, trong đó có học giả John Sutherland, nói rằng ông là “nhà thơ vĩ đại nhất của thời đại chúng ta”. Sau cái chết của ông vào năm 2013, nhật báo The Independent gọi ông “có lẽ là nhà thơ nổi tiếng nhất trên thế giới”. 

Tiểu sử:
Seamus Heaney sinh ngày 13-4-1939 tại một làng quê Bắc Ireland, mười hai tuổi nhận được học bổng và đến học tại trường cao đẳng St. Columb, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hoàng gia Belfast năm 1961. Từ năm 1975 – 1980 ông dạy học tại Carysfort College (Dublin). Năm 1982 dạy Đại học Harvard, năm 1984 được phong hàm giáo sư và từ 1989-1994 dạy ở Đại học Oxford. 

Những vần thơ đầu tiên ông viết khi còn là giáo viên ở Belfast, tập thơ đầu tay Cái chết của nhà tự nhiên học ra đời năm 1966. Các tập thơ Cánh cửa mở vào bóng đêm (1969), Hết mùa đông (1972) tiếp tục những mô-típ quen thuộc: cái chết và đất đai. Đất đai là biểu tượng của số phận, là nguồn gốc của tất cả, là sự kết hợp giữa tàn phá và dựng xây, của sự yên nghỉ muôn đời và sự hồi sinh lại. Các tiểu luận của ông Quyền lực của ngôn từ và Thơ ca đứng lên bày tỏ những suy nghĩ về trách nhiệm công dân đối với số phận của đất nước bị chia cắt và tàn phá. Bản dịch thiên sử thi thời trung cổ Boewulf của ông ra tiếng Anh hiện đại được xếp là cuốn sách best-seller năm 2000 ở Anh và Mỹ. 

Seamus Heaney là thành viên của Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Ireland; thành viên nước ngoài của Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Mỹ, được nhận nhiều bằng danh dự của các trường đại học. Năm 1996, Seamus Heaney là người thứ tư của đảo quốc nhỏ bé Ireland được trao giải Nobel Văn học, vì ông đã sáng tạo ra 9 tập thơ mang vẻ đẹp trữ tình và chiều sâu thẩm mỹ, tôn vinh những phép lạ của đời thường và của quá khứ sống động. Đối với Seamus Heaney, nhiệm vụ của nhà thơ là bảo vệ cái đẹp đặc biệt là khi các chế độ độc tài tiêu diệt nó.Ngoài ra, ông còn nhận được giải thưởng nghệ thuật và văn chương do Bộ Văn hóa Pháp trao tặng. S. Heaney được coi là nhà thơ số một trên đảo quốc Ireland nhiều tài năng văn học.

Seamus Heaney qua đời tại bệnh viện Blackrock ở Dublin ngày 30 tháng 8 năm 2013, sau một thời gian ngắn bị bệnh, hưởng thọ 74 tuổi. Con trai Michael của ông đã tiết lộ trong đám tang rằng cha ông đã đưa ra những lời cuối cùng “Noli timere” (tiếng Latinh: "”Đừng sợ”), cho vợ ông, Marie, vài phút trước khi ông qua đời. Thi hài của ông mai táng tại Nghĩa trang của Nhà thờ St. Mary, Bellaghy, Quận Londonderry, Bắc Ailen. Trên bia mộ có khắc dòng chữ “Walk on air against your better judgement” – là một câu thơ nổi tiếng của ông.  

Tác phẩm:
*Cái chết của nhà tự nhiên học (Death of a naturalist, 1966), thơ
*Cánh cửa mở vào bóng đêm (Door into the dark, 1969), thơ
*Hết đông (Wintering out, 1972), thơ
*Miền Bắc (North, 1975), thơ
*Công việc đồng áng (Field work, 1979), thơ
*Những mối bận tâm (Preoccupations, 1980), tập tiểu luận của thời kì 1968-1978.
*Lạc đường (Sweeney astray, 1984), thơ
*Đồn đảo (Station Island, 1984), thơ
*Ngọn đèn sơn tra (The haw lantern, 1987), thơ
*Quyền lực của ngôn từ (The government of the tongue, 1988), tiểu luận
*Thấy sự vật (Seeing things, 1991), thơ
*Việc chữa bệnh ở Troy (The cure at Troy, 1991), kịch
*Tiểu luận về thơ ca đương đại Bắc Ireland (Essays on the contemporary poetry of Northern Ireland, 1992), nghiên cứu phê bình.
*Tập tiểu luận phê bình (A collection of critical essays, 1993), tiểu luận
*Điều chỉnh lại thơ ca (The redress of poetry, 1995), tiểu luận
*Cấp độ của tâm hồn (The spirit level, 1996), thơ
*Ánh điện (Electric light, 2001), thơ

Một số bài thơ


GIÃ BIỆT

Cô em mặc váy kẻ ô
Và chiếc áo choàng đơn giản
Từ ngày cô bỏ nhà đi
Ngôi nhà tiêu điều, hoang vắng.

Khi em có mặt
Thời gian thả neo
Trên nụ cười, nhưng em đi mất
Nhổ neo, choáng váng tình yêu.

Tháng ngày vội vàng, gấp rút
Đi qua hết gần cuốn lịch
Dồn vào lặng lẽ âm thanh
Của giọng nói em dịu dàng.

Thiếu em, tan tác bến bờ anh
Em đi rồi, anh một mình trên biển
Đến một ngày em chưa bỏ lệnh
Thì anh vẫn còn nổi loạn, cuồng điên.

Valediction

Lady with the frilled blouse
And simple tartan skirt,
Since you have left the house
Its emptiness has hurt

All thought. In your presence
Time rode easy, anchored
On a smile; but absence
Rocked love's balance, unmoored

The days. They buck and bound
Across the calendar
Pitched from the quiet sound
Of your flower-tender

Voice. Need breaks on my strand;
You've gone, I am at sea.
Until you resume command
Self is in mutiny.



YÊU DẤU ARAN(1)

những con sóng muôn đời, sạch sẽ, trắng trong, kính vỡ
đi vào vách đá, làm cho mắt lóa, sững sờ
những con sóng đến từ hai châu Mỹ.

chinh phục Aran. Hay là Aran vội vã
giang rộng vòng tay của đá bên con nước thủy triều
có phải chết con nước ròng và nhẹ nhàng tan vỡ?

biển vạch ranh giới với đất liền, hay đất với biển?
biển xâm phạm đất liền để hòa quyện vào nhau
theo cách của mình, ý nghĩa từng con sóng.
__________

(1)Aran – một hòn đảo ở bờ tây của Ai-len

Lovers on Aran

The timeless waves, bright, sifting, broken glass,
Came dazzling around, into the rocks,
Came glinting, sifting from the Americas

To posess Aran. Or did Aran rush
to throw wide arms of rock around a tide
That yielded with an ebb, with a soft crash?

Did sea define the land or land the sea?
Each drew new meaning from the waves' collision.
Sea broke on land to full identity.



THÁNH FRANCIS VÀ CHIM

Khi Francis rao giảng tình yêu cho chim
Chúng lắng nghe, đập, vỗ cánh rồi bay
Lên trời xanh, giống như một bầy lời.

Lời mua vui từ môi thánh của Ngài.
Sau quay trở lại trên đầu bay lượn
Nhảy múa trên chiếc mũ của anh trai. 

Nhảy trên cánh, những con chim đùa vui
Và hát lên, như hình ảnh đang bay. 
Bài thơ hay nhất mà Francis thể hiện

Lý lẽ chính xác và giọng Ngài mềm mỏng. 

Saint Francis and the birds

When Francis preached love to the birds,
They listened, fluttered, throttled up
Into the blue like a flock of words

Released for fun from his holy lips.
Then wheeled back, whirred about his head,
Pirouetted on brother's capes,

Danced on the wing, for sheer joy played
And sang, like images took flight.
Which was the best poem Francis made,

His argument true, his tone light.


GIÀN GIÁO

Những người thợ khi bắt đầu xây nhà
Kiểm tra kỹ xem giàn giáo chắc chưa

Để không bị rơi từ trên cao xuống
Kiểm tra thang, bắt vít ốc chắc chắn

Xây xong rồi mà đổ xuống ai cần
Bởi đá cứng, chắc chắn những bức tường.

Thì chuyện của anh và em cũng vậy
Em ngỡ rằng cây cầu xưa đã gãy

Em đừng sợ. Dù cho giàn giáo rơi
Nhưng ta đã xây tường chắc chắn rồi.

Scaffolding

Masons, when they start upon a building,
Are careful to test out the scaffolding;

Make sure that planks won't slip at busy points,
Secure all ladders, tighten bolted joints.

And yet all this comes down when the job's done,
Showing off walls of sure and solid stone.

So if, my dear, there sometimes seem to be
Old bridges breaking between you and me,

Never fear. We may let the scaffolds fall,
Confident that we have built our wall.



NGƯỜI ĐÀN ÔNG TOLLUND*
(The Tollund man)

Một hôm tôi đến Aarhus
Để xem xác ướp của ông
Quanh đầu có những vỏ đậu
Mũ da và mí mắt sưng. 

Ở bên quốc gia láng giềng
Người ta đã đào thấy ông
Những hạt giống mùa đông cuối
Tích tụ trong dạ dày ông.

Trần truồng – chỉ còn dây lưng
Mũ và dây vòng quanh cổ.
Tôi sẽ đứng lâu ở đó.
Chàng rể dành cho nữ thần

Người ta tìm thấy trong đầm
Than bùn giữ thân xác ông
Như là một thứ nước ép
Giữ gìn thân thể thiêng liêng. 

Giữ gìn thân xác thánh thần
Nhờ công lao của than bùn.
Bây giờ khuôn mặt còn vết
Được yên nghỉ trong bảo tàng.
__________
*Người đàn ông Tollund là xác chết được ướp xác tự nhiên của một người đàn ông sống vào thế kỷ thứ 4 tr. CN, trong thời kỳ đồ sắt tiền La Mã. Xác ướp này được tìm thấy ở Đan Mạch trong một đầm lầy than bùn. Xác ướp này được bảo tồn tốt đến mức, khi được phát hiện người ta đã lầm tưởng đây là nạn nhân của một vụ giết người gần đây. Xác ướp này hiện được bảo quản tại bảo tàng của Đại học Aarhus, Đan Mạch. 


The Tollund man

I
Some day I will go to Aarhus
To see his peat-brown head,
The mild pods of his eye-lids,
His pointed skin cap.

In the flat country near by
Where they dug him out,
His last gruel of winter seeds
Caked in his stomach,

Naked except for
The cap, noose and girdle,
I will stand a long time.
Bridegroom to the goddess,

She tightened her torc on him
And opened her fen,
Those dark juices working
Him to a saint's kept body,

Trove of the turfcutters'
Honeycombed workings.
Now his stained face
Reposes at Aarhus.





ANTAEUS(1)

Tôi thức dậy buổi bình minh
Như bông hoa hồng – tươi và sáng
Thì mối đe doạ của ngoại bang
Trong cuộc chiến này tôi sẽ thắng.

Những sức mạnh của đất đai
Những dòng nước ngầm sôi nổi
Tôi sẽ mang theo trong người
Khi tôi lăn vào trong đất bụi.

Nơi phát sinh của tôi – là bóng tối
Là đá ngầm, là gốc rễ của cây
Là cơn lốc ngầm và sự vần xoay
Là hang động, đất đai và nước nổi.

Cứ xuất hiện thêm một anh hùng mới
Hecrales trên đường đến khu vườn.
Nhưng để giết được tôi trong cuộc chiến tranh
Thì đánh nhau là điều không tránh khỏi.

Và giờ đây tôi nằm trong đất bụi
Nhưng sức mạnh mới tràn đầy
Dù nó biết rằng cần xua tôi đi khỏi
Mặt đất quê hương rất mạnh mẽ này.
____________
(1)Antaeus (Antaios) – theo thần thoại Hy Lạp là một trong số thần khổng lồ, là con trai của Poseidon và nữ thần Gaea Libia. Là thần không thể đánh bại một khi còn chạm vào mẹ mình là thần đất Gaea thì luôn lấy lại được sức mạnh. Hecrales trên đường đến khu vườn để lấy cắp quả táo của các nàng Hesperides đã giết được Antaeus bằng cách nhấc bổng thần lên cao rồi bóp chết (kì công thứ 11).

Antaeus

When I lie on the ground 
I rise flushed as a rose in the morning.
In fights I arrange a fall on the ring 
To rub myself with sand.

That is operative
As an elixir. I cannot be weaned
Off the earth's long contour, her river-veins.
Down here in my cave

Girded with root and rock
I am cradled in the dark that wombed me
And nurtured in every artery
Like a small hillock.

Let each new hero come
Seeking the golden apples and Atlas:
He must wrestle with me before he pass
Into that realm of fame

AMong sky-born and royal.
He may well throw me and renew my birth
But let him not plan, lifting me off the earth,
My elevation, my fall.


THEN CỬA BUÔNG

Then cửa buông – một tia nắng mỏng
Cắt vào sân chẳng nhìn ra.
Hành lang màu vàng chúng đi qua
Rồi lặng lẽ mất hút vào đêm vắng.

Ngày e ấp chiếu sáng lên
Khung cửa, bậc thềm và đá
Khi quay trở về, đêm lặng lẽ
Chùi lên sân đã thấy rõ rành.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét